tung_peter

New Member

Download Đề tài Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay tiền và thực trạng áp dụng miễn phí





“Điều 163 Bộ luật Hình sự 1999 Qui định:
1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hay phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hay làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Các tranh chấp xảy ra hiện nay về lãi suất trong các hợp đồng vay tiền đều do những lí do khách quan và chủ quan nhất định nhưng chủ yếu là do lãi suất cho vay cao, không phù hợp với pháp luật. Và hơn nữa các tranh chấp không chỉ xảy ra đối với các ngân hàng, các TCTD mà còn xảy ra rất phổ biến trong nhân dân. Ví dụ:
Ngày 4 tháng 1 năm 2009, co quan Cảnh sát điều tra Thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây nay là Quận Hà Đông, Thành Phố Hà Nội dó ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Hữu Hưng (sinh năm 1982) và Trịnh Lê Hoài Nam (sinh năm 1989), cùng có hộ khẩu thường trú tại Quận Hà Đông về hành vi cho vay nặng lãi, xiết nợ và bắt giữ người trái pháp luật.
Nguyễn Văn An và em trai là Nguyễn Văn Ninh, hộ khẩu thường trú tại Quận Hà Đông, một tay chơi sành điệu thường xuyên chơi game online và lô đề. Để có tiền tiêu sài, An và Ninh đã tìm đến những người quen và bạn bè để vay.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ông có khả năng trả cả gốc lẫn lãi nên họ “không dám” vay. Và như vậy nguồn tiền trong các Ngân hàng, nguồn tiền dự trữ trong nhân dân không những không đem lại hiệu quả mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các cá nhân… muốn vay.
Việc quy định lãi suất thấp so với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng không ổn. Việc quy định lãi suất thấp chỉ áp dụng cho các đối tượng ưu tiên mà pháp luật quy định còn mặt bằng chung phải phù hợp với mọi nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất (lạm phát hay giảm phát, kinh tế phát triển hay chậm phát triển…). Lãi suất thấp sẽ làm giảm hiệu quả của đồng tiền, làm giảm sự phát triển kinh tế, làm giảm nguồn thu của bên cho vay. Nhìn một cách khách quan, lãi suất thấp chỉ có lợi trước mắt cho bên vay. Nhưng cái lợi trước mắt không phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới.
Như vậy, việc quy định lãi suất quá cao hay quá thấp đều không mang lại hiệu quả. Nhà nước tính toán làm sao để pháp luật có những quy định hợp lý không làm giảm hiệu quả của giá trị đồng tiền mang lại cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng vay, đem lại sự phát triển bền vững và lâu dài cho nền kinh tế.
Hơn nữa có thể thấy sự bất cập và thiếu chặt chẽ còn thể hiện ở chỗ: lãi suất được quy định trong BLDS 2005 phải ≤ (nhỏ hơn hay bằng) 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp A cho B vay với lãi suất là 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố trong thời gian 1 năm nhưng hết 1 năm B vẫn chưa trả cho A, lúc này phát sinh lãi suất quá hạn và lãi suất này được tính như thế nào? Nếu A và B có thoả thuận về mức lãi suất quá hạn nhưng mức lãi suất này lại vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (vì lãi suất đúng hạn mà A và B thoả thuận đã bằng 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước) thì lúc này hậu quả sẽ ra sao? Việc áp dụng Điều 476 BLDS 2005 có thực sự hiệu quả? Nếu trường hợp A và B không thoả thuận về lãi suất quá hạn thì việc tính lãi suất này sẽ theo quy định của pháp luật, tức là vẫn ≤ (nhỏ hơn hay bằng) 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, như vậy việc phân loại lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn không còn ý nghĩa bởi vì cách tính lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn là như nhau.
Hiện nay, lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng tại một số ngân hàng đã bắt đầu cán đích 10%, trong khi lãi suất cơ bản vẫn giữ nguyên 7% và trần cho vay tối đa không quá 10,5%/năm. Bằng phép tính đơn giản cũng có thể nhận ra rằng không có lý do gì để ngân hàng đẩy lãi suất lên để gánh lấy thua lỗ, trừ khi lâm vào tình huống gặp khó khăn trong thanh khoản. Thật ra, nguyên nhân chính ở đây là do một số ngân hàng đang chuyển hướng mạnh sang cho vay tiêu dùng theo cơ chế lãi suất thỏa thuận, với mức lãi suất bình quân từ 12-15%/năm, chênh lệch giữa đầu ra – đầu vào lên đến 4-5 điểm phần trăm/năm, một tỷ lệ thực sự hấp dẫn nếu chúng ta biết rằng trong tín dụng nếu duy trì chênh lệch khoảng 3,5 điểm phần trăm/năm là có thể tạm yên tâm về tài chính. Việc điều hành thông qua cơ chế “hai giá”, vừa duy trì lãi suất trần vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận, tưởng chừng là lối thoát tài chính hợp lý cho các ngân hàng thương mại, nhưng vô hình trung đã nắn dòng chảy tín dụng ngày càng trở nên bất cập. Do sức hấp dẫn của chênh lệch lãi suất, vốn tín dụng tất yếu chảy dồn vào các kênh tiêu dùng, đáng kể nhất hiện nay là bất động sản và chứng khoán. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước vẫn đang khẳng định dư nợ cho vay chứng khoán và bất động sản hạch toán trên sổ sách nhìn chung chưa có biến động lớn vượt tầm kiểm soát, đây là ý kiến đáng lưu ý vì nhiều nhà quan sát cho rằng sở dĩ thị trường chứng khoán thời gian qua nóng lên bất thường phần lớn là do sự tiếp sức nhanh và mạnh từ các luồng tiền ngân hàng.
Hiện tại, các NHNN đang tổ chức lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật NHNN Việt Nam (sửa đổi) và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Một trong những điểm mới mà luật đưa ra là TCTD và khách hàng có thể tự thỏa thuận mức lãi suất. Việc thỏa thuận lãi suất sẽ khiến việc huy động vốn dễ hơn. Dự thảo Luật Ngân hàng Nhà Nước và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sẽ chính thức trình Quốc hội thông qua vào năm 2010.
Dự thảo Luật Các TCTD sửa đổi gồm 10 chương, 164 điều. Nhận được nhiều ý kiến đồng tình khi trao quyền cho TCTD và khách hàng thỏa thuận mức lãi suất trong các hoạt động ngân hàng, không phụ thuộc vào quy định của Bộ luật Dân sự vì bản chất hoạt động kinh doanh ngân hàng của TCTD khác về bản chất với hoạt động cho vay trong quan hệ dân sự thông thường. Đặc biệt, việc áp dụng trần lãi suất có thể làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không phản ánh đúng và đầy đủ tình trạng thanh toán của các ngân hàng, qua đó đã vô hiệu hóa một tín hiệu quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền tệ…
Như vậy chiếu theo Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 “Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng” thì rất nhiều Ngân hàng đang vi phạm luật bởi lãi suất cơ bản do NHNN công bố hiện chỉ 7%/năm tức lãi suất cho vay không được vượt quá 10,5%/năm. Dường như, thời gian qua nắm được điểm yếu này, các Ngân hàng tha hồ nâng lãi suất, ký những hợp đồng phạm luật mà không e ngại. Luật sư Nguyễn Sa Linh([24]) khẳng định: “Nếu tranh chấp về lãi suất được đưa ra Tòa, những hợp đồng có lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản sẽ bị tuyên vô hiệu vì phạm luật và khách vay có quyền trả với lãi suất 150% lãi cơ bản”. Còn Luật sưNguyễn Thanh Lương([25])phân tích “dù trong hợp đồng có điều khoản không được tiết lộ những điều khoản cho bên thứ 3, nhưng luật cũng quy định một số cơ quan có thẩm quyền được phép biết và Tòa án nằm trong số đó. Còn việc ngân hàng cho rằng lãi trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận thì vẫn vi phạm Điều 476 Bộ luật Dân sự”.
Một vấn đề cũng rất cần quan tâm đó là hiện tượng các Ngân hàng hiện nay cho vay với các điều kiện vô lý. Ví dụ: muốn vay 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để đầu tư phải thoả mãn điều kiện có 10 héc ta (ha) đất không thì phải trả lãi suất cao mới được vay. Nhưng rất ít hộ dân có tới 10 ha đất. Tác giả cho rằng không nên quy định hạn mức mà điều kiện cho vay cần phụ thuộc nhiều yếu tố. Vì nếu hộ dân có 1, 2 sào thì chỉ được vay 1, 2 triệu đồng như vậy không đủ để đầu tư. Hơn nữa, nếu trên mảnh đất “1, 2 sào” đó lại có tiềm năng phát triển thì như vậy quy định của các ngân hàng lại gián tiếp làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nếu chấp nhận vay thì người dân phải chấp nhận một lãi suất cao “ngút trời”. Các ngân hàng đã vin vào các điều kiện vô lý này để tiến hành cho vay nặng lãi.
Dư luận đang chờ các cơ quan có thẩm quyền giải bài toán “cho vay nặng lãi” của các ngân h
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
J [Free] Vấn đề bằng chứng kiểm toán trong các Cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính của Công Ty Kiểm Toán Luận văn Kinh tế 0
S [Free] Một số vấn đề về nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu khí Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Hạch toán tài sản cố định với những vấn đề quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định Luận văn Kinh tế 0
K [Free] Xây dựng phần mềm với đề tài Đánh giá rủi ro khách hàng vay vốn ngân hàng Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Báo cáo thực tập đề tài : Nguyên vật liệu – công cụ dụng cụ tại Công ty TNHH y tế Nam Việt . Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Đề án Cơn bão tài chính tiền tệ Châu Á Luận văn Kinh tế 0
H [Free] Đề án Hoàn thiện phương pháp tính và kế toán khấu hao Tài sản cố định hữu hình theo chế độ hi Luận văn Kinh tế 0
V [Free] Đề tài: Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nề Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Đề tài: phân tích bản chất của phạm trù giá trị thặng dư trong bộ tư bản - mác đã phân tích Tài liệu chưa phân loại 0
C [Free] Đề tài: Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam lí luận và thực tiễn Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top