Download Tiểu luận Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu miễn phí





Trong pháp luật dân sự nguyên tắc tự do cam kết, tự do thỏa thuận là nguyên tắc đặc trưng, xuất phát từ tính độc lập về sở hữu, tính tự chủ và độc lập về tài sản, tự chịu trách nhiêm về tài sản của các chủ thể. Do vậy nguyên tắc tự thỏa thuận trở thành nguyên tắc cơ bản và bao trùm toàn bộ ngành luật dân sự, được quy định cụ thể tại Điều 4 BLDS 2005. Một số trường hợp giao dịch dân sự mà trong giao dịch một số tài sản đưa ra giao dịch là tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước do vậy khi vô hiệu thì điều đầu tiên là các bên xác định tài sản đó sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà nước. do vậy các bên chỉ co thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường mà không được đề cập tới vấn đề tài sản;



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

g lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập , thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự” (theo Điều 17 BLDS 2005) ….
Tuy nhiên không phải cá nhân nào cũng có năng lực hành vi dân sự hoàn toàn mà có trường hợp có những cá nhân bị hạn chế, hay chỉ nó năng lực hành vi dân sự một phần thì trường hợp này cần có những người thay mặt cho họ đứng ra để đảm bảo cho họ trong giao dịch dân sự.
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đuợc toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.
+ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hay người giám hộ đồng ý …)
+ Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không đuợc phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người thay mặt theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Còn đối với các chủ thể khác: pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các chủ thể này tham gia giao dịch dân sự thông qua người thay mặt của họ. Tuy nhiên pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đền hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực sản xuất và kinh doanh khác theo qui định của pháp luật (Điều 106 BLDS 2005). Tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS 2005).
2.2. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hôi:
Mục đích tức là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch dân sự nào đó.
Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch.
Tất cả nội dung và mục đích của bất kì một giao dịch dân sự nào đều phải phù hợp vơi pháp luật không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia giao dịch dân sự và giao dịch dân sự mới có hiệu lực.
2.3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện:
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí, và bày tỏ ý chí, cho nân tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí, thiếu một yếu tố đó không còn là tự nguyện. các bên tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện: tự do, tự nguyện câm kết, thỏa thuận, vi phạm sự tự nguyện chính là vi phạm thỏa thuận, và vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc tự do, tự nguyên cam kết, thỏa thuận được quy định tại Điều 4 BLDS 2005.
2.4. Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật:
Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch, Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết đuợc nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa cá bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lực chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ thao (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được Công chứng nhà nước chứng nhân, được chứng thực, đăng ký hay phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 124 BLDS năm 2005)
II. Giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Khái Niệm:
Theo Điều 127 BLDS 2005 thì: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được qui định tại Điều 122 của bộ luật này thì vô hiệu”.
Ví phạm các điều khoản tại Điều 122 thì giao dịch sẽ không có giá trị pháp lý ngay từ thời điểm ký kết nêu giao dịch chưa được thực hiện hay đang thực hiện thì không còn được thực hiện nữa, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những điều đã nhận. Như vậy ta khẳng định rằng chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Những quy định về sự vô hiệu của gia dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý chủ cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.
Giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 127 đến Điều 138 của BLDS 2005.
2. Các loại giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự vô hiệu có thể phân thành 2 nhóm chính: Vô hiệu tuyệt đối ( vô hiệu đương nhiên); vô hiêu tương đối (do toà án tuyên). Sự phân loại nêu trên có cơ sở dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của hai khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Thú nhất là sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch, vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu, còn vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người co quyền, lợi ích liên quan và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Thứ hai là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Tòa nán tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (Điều 136 BLDS năm 2005). Riêng trường hợp vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức cũng thuộc nhóm vô hiệu tuyệt đối, nhưng theo quy định của Điều 136 BLDS năm 2005 thì thời hạn yêu cầu tuyên bố vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập. Thứ ba, giao dịch dấn ự thuộc trường hợp vô hiệu tueyetj đối có thể bị vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà đường nhiên không có giá trị. Còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, thì quyết định của Tòa án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Thứ tư là sự khác biệt về mục đích. Các trường h
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
K [Free] Tiểu luận Tìm hiểu thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top