nghinang2010

New Member

Download Bàn về Quyền được chết và vấn đề Luật an tử ở Việt Nam miễn phí





Người tự tử (hay cố gắng tự tử) liệu có ý kiến hợp lý nếu chúng ta xem sự cam kết của người giúp đỡ có đối đầu với hành động phạm tội sau khi người đó thất bại trong việc cố gắng tự tử hay không? Như thế thì pháp luật không có sự công bằng trong sự chọn lựa việc tự tử. Liệu có chắc rằng người trợ giúp kia là vì tình bạn, lòng trắc ẩn thương hại hay có mưu đồ tính toán khác. Rõ ràng tự tử trợ giúp không đảm bảo được nó sẽ là một cách thức hợp pháp.
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

có liên quan đến QĐC, tội danh giết người vì nhiều cơ sở: người bệnh đó đã chết, không để lại chứng cứ gì chứng minh đây là sự tự nguyện của họ. Lý do của những kết luận này rất đơn giản: các nước này cấm hành vi của QĐC hay xem đó là tội giết người. Cũng có quan điểm cho rằng, tại điểm m khoản 1, điều 93 BLHS Việt Nam 1999 có quy định tình tiết tăng nặng: “Thuê giết người và giết người thuê”[3] có những điểm giống với hành vi của QĐC. Cụ thể: Ø Thuê giết người: Cho rằng bệnh nhân đó thuê bác sỹ giết mình để thoát khỏi sự đau đớn của bệnh tật. Nhưng quan điểm hiện nay của khoa học hình sự thì: giết người là phải giết người khác. ở đây nếu theo lập luận của quan điểm trên thì bệnh nhân thuê bác sỹ đó tự giết mình nên không xâm hại tính mạng của ai mà là của chính mình nên không thể xem là thuê giết người được. Ø Giết người thuê: Để phân biệt hành vi này với hành vi của QĐC không quá khó bởi người giết người thuê là làm vì lợi ích của bản thân họ, có thể là bất kỳ ai đủ độ tuổi luật định và có năng lực đầy đủ. Còn trong hành vi của QĐC, người thực hiện phải là bác sỹ (có thể được trả công từ người bệnh, nhưng đó là viện phí...) và là vì mục đích tốt đẹp, theo những quy định nghiêm ngặt của pháp luật hiện hành. d. Hành vi theo Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 của Việt Nam Luật phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 của Việt Nam quy định quyền của người nhiễm HIV: “từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh AIDS giai đoạn cuối”[4]. Có nhiều người cho rằng đây là một dạng của cái chết êm ả nhưng là một quan điểm không đúng đắn. Tuy cũng vì mục đích nhân đạo là không bắt người bệnh chịu đựng những đau khổ quá lớn đối với khả năng chịu đựng của họ nhưng điều khoản này không giống với luật “cái chết êm ả” đã được thực hiện ở một số nước. Trong quy định này của Luật Phòng, chống HIV/AIDS, y bác sỹ không chủ động làm ngừng cuộc sống của bệnh nhân mà chỉ chấp thuận theo nguyện vọng thôi điều trị của họ, để họ không phải kéo dài những ngày tháng đau đớn về thể xác. Hành vi này cũng giống với việc người thân của người bệnh sắp chết xin bệnh viện cho đưa về nhà. Việc này khác QĐC. Nếu bệnh nhân không có hy vọng gì nữa, gia đình cũng không có khả năng kinh tế để tiếp tục điều trị nên xin cho về nhà tìm cách khác hay ngừng chữa trị và có cam kết rằng: bệnh viện sẽ không chịu trách nhiệm nếu có bất cứ chuyện gì thì bệnh viện không phạm luật trong trường hợp này. “Y tế cho về nhà không phải cho bệnh nhân chết mà là vì quan hệ tình cảm giữa người sắp chết với người thân: gặp lần cuối, có chết thì chết ở nhà, vấn đề tín ngưỡng, tập quán”[5]... Đây cũng là một điểm tiến bộ của Luật phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam so với thế giới. Việc phân biệt như trên rất có ý nghĩa trong thời điểm hiện nay khi hầu hết các quốc gia đều chưa cho phép và thông qua QĐC. Việc phân biệt này càng có ý nghĩa trong việc nghiên cứu, xây dựng Luật An tử. 3. Ý nghĩa của vấn đề thực hiện QĐC 3.1. Ý nghĩa pháp lý Từ khi QĐC ra đời đến nay đã có rất nhiều cuộc chiến pháp lý trên thế giới. Công nhận hay không công nhận QĐC là một vấn đề lớn và đặc biệt gây nhiều tranh cãi. Chúng ta sẽ xét ý nghĩa pháp lý của QĐC ở 2 khía cạnh. Thứ nhất, nếu QĐC chưa được công nhận thì những những cuộc chiến pháp lý vẫn kéo dài. Các vụ việc liên quan đến QĐC luôn rơi vào bế tắc, không lối thoát do tồn tại những quan niệm sai lầm về hành vi của QĐC. Một thực tế nữa là: các vụ việc đó không chỉ gói gọn trong lĩnh vực y học mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác dẫn đến nhiều phức tạp và rối rắm. Thứ hai, nếu QĐC được công nhận và cho phép thực hiện hành vi thì luật pháp sẽ không phải hứng chịu những cuộc chiến không lối thoát. Bởi luật pháp đã có quy định cho phép thực hiện hành vi của QĐC nên sẽ giúp cho việc xét xử các vụ án có liên quan được dễ dàng hơn. Quan trọng nhất là sẽ hạn chế đi những trường hợp xét xử không đúng với bản chất vụ án (nhầm lẫn hành vi của QĐC với các hành vi khác). 3.2. Ý nghĩa xã hội Hành vi thực hiện QĐC có ý nghĩa xã hội rất lớn với những mục đích hết sức tốt đẹp. Khi sự sống của bệnh nhân không còn được đảm bảo nữa: mắc bệnh vô phương cứu chữa, đang phải chịu đựng đau đớn kéo dài... thì an tử theo yêu cầu là cách thức hợp lý nhất. Việc này không chỉ tốt cho bệnh nhân mà còn tốt cho gia đình, xã hội. Người bệnh được ra đi thanh thản, chấm dứt những ngày tháng chịu đựng đau khổ. Gia đình bệnh nhân không phải chịu những tốn kém không đáng có và xã hội thì được bình yên hơn. Đó là một kết thúc đẹp, một “cái chết nhân đạo”. 4. Thực trạng pháp luật về QĐC 4.1. Trên thế giới a. Các quốc gia đã hợp pháp hóa QĐC Hà Lan đã đi vào lịch sử là Quốc gia đầu tiên áp dụng đạo Luật “cái chết êm ả”. Tháng 11 năm 2000, Hạ Viện Hà Lan đã thông qua dự Luật An tử. Đến ngày 10 tháng 04 năm 2001, với tỷ lệ áp đảo 46/28, Thượng viện Hà Lan đã bỏ phiếu thông qua đạo luật. Trước đó hơn 2 thập kỷ, các bạn sỹ Hà Lan đã áp dụng phương pháp “cái chết êm ả” để giúp những người bệnh nặng ra đi. Việc thông qua đạo luật năm 2001 chỉ nhằm hợp pháp hóa một thực tế đã được chấp nhận, nhất là từ khi có bản hướng dẫn “cái chết hỗ trợ” được phác thảo vào năm 1993. Điều tra toàn quốc cho thấy gần 90% người dân nước này ủng hộ Luật An tử vì nó đảm bảo quyền cá nhân[6]. Năm 2006, Hà Lan còn cho phép an tử đối với trẻ em, trẻ sơ sinh mắc bệnh nặng không thể cứu chữa. Quốc gia thứ 2 hợp pháp hóa cái chết êm ả là Bỉ. Với 86 phiếu thuận, 51 phiếu chống và 10 phiếu trắng, tối 16/05/2002, Thượng viện Bỉ đã chấp thuận đạo luật cho phép bệnh nhân bị bệnh rất nặng có QĐC dưới những điều kiện nhất định. Đây là chặng cuối của cuộc đua pháp lý kéo dài 3 năm, khởi xướng vào năm 1999 khi mà lần đầu tiên trong vòng hơn 40 năm, liên minh dân sự lên nắm quyền ở Bỉ. Ở một quốc gia mà đạo Thiên chúa chiếm ưu thế, ý tưởng hợp pháp hóa cái chết êm ả không gây mấy tranh cãi. Hạ viện Bỉ đã bật đèn xanh cho dự luật này vào tháng 10/2001. Điều tra tiến hành năm 2001 có tới 72% người dân đồng tình với cái chết êm ả[7]. Tại Mỹ, Luật Liên bang cấm thực hiện cái chết êm ả. Bang Oregon là bang đầu tiên từ năm 1994 cho phép bệnh nhân yêu cầu được chết nhưng tòa án bang đã chống lại việc thực thi điều luật này và đến năm 1997 thì Tòa án tối cao của bang đã chấp nhận. Năm 1999, Bang Texas cũng cho phép an tử. Và đến hết năm 2006, ở cả 50 bang của Mỹ đã có đạo luật cho phép bệnh nhân ở trong các điều kiện nhất định được xin chết. Trước đó, Mỹ là nước tập trung nhiều vụ án liên quan đến an tử với nhiều ảnh hưởng lớn như: Quinlan, Curzan[8] và Terri Schiavo[9] (kéo dài 8 năm) hay Bác sỹ Jek Kevorkian (người được mệnh danh là bác sỹ thần chết)[10]. Trên bình di...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top