tammobi832547

New Member

Download Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối miễn phí





Sự khác biệt về ý nghĩa của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối: Điều 136 BLDS quy định rằng: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 131 của Bộ luật này, thì vô hiệu.” Việc tuyên bố giao dịch vô hiệu trong cả hai trường hợp đều có ý nghĩa để áp dụng chế tài cần thiết vào từng giao dịch cụ thể khi giao dịch đó vi phạm vào bất cứ điều kiện nào tại điều 131 BLDS.
Nhưng, ngoài ý nghĩa đó, đối với riêng giao dịch vô hiệu tương đối việc yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu còn là một trong những biện pháp bảo vệ quyền dân sự quan trọng. Thực tế xét xử tại các nước cho thấy các vụ việc liên quan đến việc kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (thuộc trường hợp vô hiệu tương đối) có xu hướng ngày một gia tăng. Điều đó cho thấy biện pháp bảo vệ quyền dân sự dưới hình thức kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu tỏ ra là một biện pháp rất hữu hiệu.
Từ những sự khác biệt cơ bản mang tính lý thuyết giữa vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối vừa nêu trên, cho thấy có tồn tại một số các vấn đề cần giải quyết liên quan đến các quy định của BLDS về giao dịch dân sự vô hiệu. Trong khuôn khổ bài báo này chỉ xin nêu lên ba vấn đề chính.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

h dân sự là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Để một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì giao dịch đó phải đáp ứng được một số các điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều 131 BLDS thì một giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực khi có hội tụ đồng thời bốn điều kiện sau: “1- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; 2- Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội; 3- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; 4- Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật”. Về nguyên tắc nếu một giao dịch dân sự không đáp ứng được một trong bốn điều kiện nêu trên thì bị coi là vô hiệu (theo quy định tại Điều 136 BLDS). Thế nhưng trong giới các nhà nghiên cứu luật dân sự của Việt Nam hiện nay đang tồn tại một vấn đề tranh luận về trình tự bị coi là vô hiệu của giao dịch khi thiếu một trong bốn các điều kiện đó: Thế nào là vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối? Giao dịch dân sự vi phạm vào điều kiện nào thì áp dụng trình tự vô hiệu tuyệt đối, còn vi phạm điều kiện nào thì bị áp dụng trình tự vô hiệu tương đối? Trước hết cần khẳng định rằng khái niệm vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối là hai khái niệm của ngành khoa học luật dân sự, mang tính lý thuyết và chưa được sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật. Bộ luật dân sự (Phần thứ nhất, Chương 5) không phân loại các trường hợp vô hiệu của giao dịch dân sự thành vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối, mà chỉ giới hạn ở việc chỉ ra các trường hợp vô hiệu do vi phạm từng điều kiện cụ thể của giao dịch dân sự, cùng với việc chỉ ra hậu quả cụ thể của từng giao dịch vô hiệu. Thế nhưng hai khái niệm “giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối” và “giao dịch dân sự vô hiệu tương đối” lại là hai khái niệm rất quan trọng đối với khoa học luật dân sự. Chúng là công cụ không thể thiếu được trong việc nghiên cứu bản chất của giao dịch dân sự, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến thủ tục tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu. Một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau: a) Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức của xã hội; b) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác; c) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật; d) Khi giao dịch của pháp nhân xác lập vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động được cho phép, đăng ký; e) Khi giao dịch được xác lập bởi người không có năng lực hành vi dân sự (chưa đủ 6 tuổi); f) Khi giao dịch được xác lập bởi người mất năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp: a) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi cho đến chưa đủ 18 tuổi (có năng lực hành vi dân sự một phần); b) Khi giao dịch được xác lập bởi người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; c) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn; d) Khi một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe doạ ; e) Khi người xác lập giao dịch không nhận thức được hành vi của mình. Sự phân loại nêu trên có cơ sở dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của hai khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Đó là: 1. Sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch: Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu. Còn đối với các giao dịch vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi hội tụ đủ những điều kiện nhất định: a) Khi có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan và b) Theo quyết định của Toà án. Đây là sự khác biệt quan trọng nhất, được coi là tiêu chí hàng đầu để phân loại một giao dịch vô hiệu thuộc trường hợp vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối khi nghiên cứu nội dung các văn bản quy phạm pháp luật. Một số tài liệu pháp lý đã dựa vào chính sự khác biệt này để xây dựng nên khái niệm vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Cũng chính từ sự khác biệt này mà trong một số tài liệu còn sử dụng thêm các thuật ngữ khác để biểu thị sự phân loại giao dịch dân sự vô hiệu: giao dịch dân sự vô hiệu đương nhiên và giao dịch dân sự vô hiệu theo đề nghị của người có quyền và lợi ích liên quan (1). Nhìn chung thì việc sử dụng hai cặp thuật ngữ khác nhau đó không có gì trái ngược nhau. Thế nhưng đứng trên phương diện phân tích lý thuyết của luật dân sự thì việc sử dụng cặp thuật ngữ “vô hiệu tuyệt đối” và “vô hiệu tương đối” sẽ không chỉ giới hạn bởi sự khác biệt đang phân tích (mặc nhiên vô hiệu hay không mặc nhiên vô hiệu), mà còn cho phép chúng ta nghiên cứu bản chất của chúng một cách toàn diện hơn. 2. Sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu: Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiêụ không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là một năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (2). 3. Sự khác biệt về hiệu lực pháp lý của giao dịch: Giao dịch dân sự thuộc trường hợp vô hiệu tuyệt đối không có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên, thậm chí ngay cả trong trường hợp khi các bên đã tiến hành thực hiện các hành vi theo nội dung cam kết. Còn giao dịch dân sự thuộc trường hợp vô hiệu tương đối thì được coi là có hiệu lực pháp lý cho đến khi nào bị tuyên bố vô hiệu. Khẳng định này thoạt tiên có thể bị coi là trái với quy định của pháp luật khi khoản 1 Điều 146 BLDS quy định rằng giao dịch dân sự vô hiệu (cả tuyệt đối lẫn tương đối) không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập. Thế nhưng không phải vậy. Bởi vì, đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, nếu như giao dịch không được coi là có hiệu lực trước khi bị tuyên bố vô hiệu thì không thể có bất kỳ một giao dịch nào có thể có hiệu lực trong khoảng thời hiệu một năm của quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 145 BLDS. Việc quy định thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu nói lên rằng trong khoảng thời gian của thời hiệu đó giao dịch dân sự có hiệu lực cho đến khi bị tuyên bố vô hiệu theo quyết định của Toà án. Còn khi đã hết thời hiệu khởi kiện đó thì giao dịch dân sự sẽ không bị tranh chấp về hiệu lực nữa. Khẳng định này không hề mâu thuẫn với Điều 146 BLDS còn bởi vì Điều 146 BLDS chỉ chứa những quy định chung về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Theo tinh thần của Điều 146 BLDS, giao dịch dân sự một khi đã bị coi là vô hiệu (bất kể là vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối), thì nhìn chung đều có hậu quả pháp lý giống nhau là các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu (tình trạng tại thời
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
K [Free] Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch I ngân h Luận văn Kinh tế 0
P [Free] Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch 1-Ngân hàng Công thương Việt Luận văn Kinh tế 0
K [Free] Nâng cao hiệu quả tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
V [Free] Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch - N Luận văn Kinh tế 0
Y [Free] Báo cáo Thực tập tổng hợp ở Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt N Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Giải pháp hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát tr Luận văn Kinh tế 0
L [Free] Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển V Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch N Tài liệu chưa phân loại 0
G [Free] Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Hà Nội, phòng giao dịch Ba Đình Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top