Burkhart

New Member

Download Tiểu luận Những yêu cầu nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động công bố và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật miễn phí





Hoạt động soạn thảo VBQPPL có được coi là minh bạch và công khai hay không phụ thuộc rất nhiều vào công việc soạn thảo văn bản đó có công khai đối với công chúng và người dân có thể tiếp cận được các dự thảo đó hay không. Mặt khác, mức độ tham gia ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan và cá nhân bao gồm các đối tượng chịu sự điều chỉnh của VBQPPL đang soạn thảo cũng là tiêu chí đánh giá tính công khai, minh bạch và sự tham gia của người dân để bảo đảm thực sự rằng pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân. Muốn thế phải thực hiện các trình tự như sau:



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG VIỆC CÔNG BỐ VÀ DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT.
Văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL) là một loại văn bản đặc thù, thể hiện ý chí của chủ thể ban hành, có tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp đa dạng trong đó có cưỡng chế nhà nước. Khác với văn bản cá biệt, văn bản quy phạm pháp luật quy định các quy tắc xử sự chung làm phát sinh hay thay đổi các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tương ứng. Vì vây, điều kiện để một VBQPPL có hiệu lực, ngoài những yêu cầu cơ bản như tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi... phải kể đến tính dân chủ, công khai của quá trình lập pháp, lập quy và tính minh bạch của văn bản quy phạm pháp luật.
Thuật ngữ “Tính minh bạch của pháp luật” bắt đầu được sử dụng nhiều trong các tài liệu nghiên cứu kể từ khi nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt là từ khi Hiệp định thương mại Việt-Mĩ được kí kết thì thuật ngữ này được nhắc đến nhiều hơn. Theo cách nói thông thường “Minh bạch” được hiểu là sự rõ ràng, ai cũng biết. Không thể nói rằng, khi một văn bản pháp luật được đăng công khai trên phương tiện thông tin đại chúng là văn bản đó đã có tính minh bạch, bất luận nội dung của nó như thế nào. Và ngược lại, một văn bản pháp luật cho dù được xây dựng rất chi tiết, cụ thể, rõ ràng, bảo đảm tính phù hợp, tính thống nhất đồng bộ, tính hợp hiến hợp pháp... nhưng không được công bố để mọi người tìm hiểu thi hành thì cũng không thể nói đã đảm bảo tính minh bạch.
Như vậy, nội dung của tính minh bạch bao gồm hai yếu tố : một là: phải rõ ràng, rành mạch và hai là : phải có tính công khai, ai cũng có thể biết. Minh bạch thường gắn liền với công khai, hay nói cách khác, tính công khai vừa là thuộc tính của minh bạch, vừa là điều kiện để thể hiện tính minh bạch. Có thể trong các tài liệu nghiên cứu, tùy theo các góc độ nghiên cứu khác nhau mà người ta có thể phân chia ra nhiều yêu cầu cụ thể đối với tính minh bạch. Trong phạm vi bài luận này, nội dung của tính minh bạch, công khai sẽ được tiếp cận dưới góc độ của việc công bố và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
NHỮNG YÊU CẦU NHẰM ĐẢM BẢO TÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ VÀ DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Tính công khai, minh bạch trong giai đoạn chuẩn bị.
Giai đoạn lập chương trình xây dựng pháp luật: Mục 2, chương III của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi là luật) đưa ra các yêu cầu và trình tự tiến hành việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Tính công khai và minh bạch hóa việc lập chương trình được thể hiện ở những quy định cho phép các cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền sáng kiến lập pháp đều có quyền gửi để nghị xây dựng luật, pháp lệnh đến ủy ban thường vụ quốc hội(UBTVQH) và chính phủ. Sau đó, chính phủ lập dự kiến chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh để UBTVQH xem xét quyết định xây dựng chương trình luật, pháp lệnh cả nhiệm kì và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm sẽ do Quốc Hội quyết định. Điều 59 về các yêu cầu và trình tự tiến hành việc lập và thông qua chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định cũng cho thấy tính công khai, minh bạch của quy trình này, theo đó các Bộ, các cơ quan tổ chức, cá nhân hữu quan đề xuất việc xây dựng nghị quyết, nghị định.
Luật không quy định căn cứ để cơ quan tổ chức và cá nhân có quyền đề xuất xây dựng pháp luật hay quyết định việc đề xuất xây dựng pháp luật dựa trên căn cứ nào. Mặc dù, theo quy định gián tiếp của luật thì khi đề xuất việc xây dựng văn bản pháp luật cơ quan, tổ chức và cá nhân phải nêu ra sự cần thiết ban hành văn bản pháp luật đó, nhưng thực tế cho thấy các lý do về tính cần thiết, nghiên cứu ban hành, sửa đổi, bổ sung VBQPPL chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của cơ quan quyền lực nhà nước liên quan, của cơ quan thực thi văn bản pháp luật liên quan, chứ rất ít trường hợp tiến hành khảo sát nghiên cứu thực tiễn xã hội, đặc biệt là ý kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của VBQPPL đó. Việt Nam không phải là trường hợp ngoại lệ, ở hầu hết các quốc gia, các dự luật đều bắt đầu từ việc những cán bộ thực thi pháp luật phát hiện ra những khó khăn, cản trở và đề xuất những thay đổi đối với pháp luật hiện hành. Thực tế cho thấy ở những nơi mà trong quá trình chuẩn bị chương trình xây dựng dự án luật hay sửa đổi, bổ sung pháp luật mà ý kiến khảo sát nghiên cứu xã hội, ý kiến phản hồi người dân và đặc biệt là nhưng đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án pháp luật được xem xét cân nhắc thì chương trình xây dựng pháp luật được coi là sát với thực tế và đáp ứng được nhu cầu xã hội hơn. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trình tự ưu tiên xây dựng pháp luật và tính liên kết giữa các đạo luật sẽ được ban hành để đảm bảo tính đồng bộ và tính khả thi của văn bản pháp luật.
Ví dụ : Khi soạn thảo luật xây dựng, ngoài việc lấy ý kiến các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương, địa phương và ý kiến đóng góp của các đối tượng trực tiếp thi hành văn bản, bổ sung thành viên tổ biên tập từ các doanh nghiệp-tổng công ty xây dựng Sông Đà, tổng công ty xây dựng Hà Nội... ban soạn thảo luật tự xét thấy cần thiết nên đã tổ chức lấy ý kiến đóng góp rộng rãi từ các tổ chức như : hiệp hội xây dựng Việt Nam, hội kiến trúc sư Việt Nam, hội tư vấn xây dựng Việt Nam, hội vật liệu xây dựng Việt Nam, Hội cấp nước Việt Nam... vì vậy nội dung dự thảo đóng góp luật sau khi lấy ý kiến đã được cụ thể thêm về tính thực tiễn, tính khoa học và làm cho chất lượng văn bản được hoàn thiện hơn.
Thành lập ban soản thảo: Soạn thảo văn bản pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hình thành nên dự thảo văn bản pháp luật. Hoạt động này được tiến hành theo nhiều quy trình khác nhau, được thể hiện bởi sự phối hợp, tham gia của nhiều chủ thể. Do đó, để đảm bảo tính công khai và minh bạch trong việc công bố và dự thảo VBQPPL luật cũng quy định phải thành lập ban soạn thảo đối với các VBQPPL do Quốc Hội và UBTVQH ban hành. Ban soạn thảo do UBTVQH hay cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm chủ trì việc soạn thảo ra quyết định thành lập. Để soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định của chính phủ cũng phải thành lập cơ quan soạn thảo, nhưng không nhất thiết thành lập ban soạn thảo đối với các VBQPPL khác.
Tính công khai, minh bạch trong quá trình soạn thảo.
Hoạt động soạn thảo VBQPPL có được coi là minh bạch và công khai hay không phụ thuộc rất nhiều vào công việc soạn thảo văn bản đó có công khai đối với công chúng và người dân có thể tiếp cận được các dự thảo đó hay không. Mặt khác, mức độ tham gia ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan và cá nhân bao gồm các đối tượng chịu sự điều chỉnh của VB...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top