julianree

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng

Mức độ phát triển và văn minh của một quốc gia không chỉ được đánh giá bằng tốc độ tăng trưởng của GDP, của thu nhập bình quân đầu người mà còn phụ thuộc vào giá trị công bằng và khả năng thực thi của pháp luật. Một nền pháp chế văn minh phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu[1]. Có lẽ vì thế, pháp luật về quyền của người tiêu dùng luôn là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật thương mại của các quốc gia phát triển và đã trở thành vấn đề pháp lý quốc tế.
>> Một số vấn đề về xây dựng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
>>Pháp luật bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng


Mức độ phát triển và văn minh của một quốc gia không chỉ được đánh giá bằng tốc độ tăng trưởng của GDP, của thu nhập bình quân đầu người mà còn phụ thuộc vào giá trị công bằng và khả năng thực thi của pháp luật. Một nền pháp chế văn minh phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu[1]. Có lẽ vì thế, pháp luật về quyền của người tiêu dùng luôn là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật thương mại của các quốc gia phát triển và đã trở thành vấn đề pháp lý quốc tế.
Tại Việt Nam, với quan niệm người tiêu dùng là chủ thể trong các giao dịch thương mại - dân sự, pháp luật luôn hướng đến việc bảo vệ sự công bằng và duy trì tính minh bạch của các hợp đồng là đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại … Bảo vệ người tiêu dùng đã thực sự trở thành một lĩnh vực pháp luật độc lập và có vị trí đáng kể trong hệ thống pháp luật thương mại kể từ khi Pháp lệnh về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Pháp lệnh) được ban hành năm 1999. Dù các văn bản pháp luật trên đã có hiệu lực, song thực trạng vi phạm quyền của người tiêu dùng ngày càng nghiêm trọng. Các nhà khoa học, các cơ quan có thẩm quyền và các hiệp hội của người tiêu dùng đã có nhiều cố gắng tìm kiếm và phân tích các nguyên nhân của tình trạng trên như sự thờ ơ của người tiêu dùng trong việc sử dụng các công cụ pháp lý để tự bảo vệ, sự lãnh cảm của nhiều công chức và của các cơ quan có trách nhiệm, vai trò mờ nhạt của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng … Như một tất yếu, nguyên nhân quan trọng nhất được quy về cho sự không đồng bộ và thiếu hiệu quả của hệ thống pháp luật. Để giải quyết tình trạng trên, Nhà nước đang cố gắng nâng cấp Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thành Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (Luật BVNTD). Chúng tui cho rằng, việc nâng cấp pháp lệnh thành luật là cần thiết để khẳng định giá trị pháp lý của lĩnh vực pháp luật này. Song nhiệm vụ quan trọng hơn vẫn là pháp luật phải có nội dung hợp lý và xây dựng được thiết chế thực thi hiệu quả. Trong đó, đạo luật đang được xây dựng cần khắc phục những nhược điểm căn bản của các văn bản hiện hành và được đặt vào môi trường pháp lý thuận lợi thì mới có thể phát huy giá trị thực sự.
1. Xây dựng cơ chế tự vệ cho người tiêu dùng - trọng tâm của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng không thể coi người tiêu dùng như một đối tượng được bảo vệ một cách thụ động mà cần kích thích và trao cho từng cá thể người tiêu dùng khả năng tự bảo vệ một cách hiệu quả. Để thực hiện yêu cầu này, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, để pháp luật bảo vệ người tiêu dùng được thực thi hiệu quả, Nhà nước và pháp luật phải phát huy được vai trò cơ bản và chủ động của từng người tiêu dùng trong việc tự bảo vệ và thiết lập các cơ chế để họ thực hiện quyền năng của mình một cách tích cực. Bởi lẽ, pháp luật chỉ có thể đem lại giá trị thực tế khi người tiêu dùng nhận biết và có khả năng vận dụng một cách hiệu quả quyền năng của mình. Nhà nước không thể tự cho mình hay tự thành lập những tổ chức có vai trò bảo vệ người tiêu dùng, trong khi chính người được bảo vệ không nhận biết và không có được môi trường để thực hiện quyền tự vệ. Sự thiếu hiểu biết pháp luật của người tiêu dùng lại tạo nên cơ hội cho doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm. Như một tất yếu, khi người tiêu dùng không nhận thức trọn vẹn địa vị pháp lý của mình và không thể tự vệ, sẽ xuất hiện hiện tượng coi thường pháp luật từ các doanh nghiệp; thái độ thờ ơ, lãnh cảm trước pháp luật và sự cam chịu của người tiêu dùng. Để thay đổi được thực trạng, cần có những cải cách mang tính đột phá về hình thức và nội dung của Luật BVNTD đang được xây dựng. Trong pháp luật hiện hành, công thức chung của các quy định về địa vị pháp lý của chủ thể thường là liệt kê các quyền, nghĩa vụ hay trách nhiệm. Sự liệt kê không giải thích hay không được cụ thể hóa bằng cơ chế thực thi thích hợp đã làm cho các quy định của pháp luật trở thành những tuyên ngôn không có giá trị thi hành trên thực tế. Pháp lệnh không là ngoại lệ. Đặc thù của lĩnh vực pháp luật này là các quyền của người tiêu dùng phát sinh và được thực hiện chủ yếu trong quan hệ giữa từng cá nhân có nhu cầu tiêu dùng với doanh nghiệp hay với các cơ quan nhà nước khi có khiếu nại, khởi kiện. Do đó, với nguyên lý đối ứng, quyền của người tiêu dùng chỉ được tôn trọng khi pháp luật có cơ chế hợp lý ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp, của các cơ quan nhà nước, các cán bộ có liên quan một cách chi tiết, cụ thể. Ví dụ, quyền được thông tin của người tiêu dùng chỉ được thực hiện trên thực tế khi pháp luật xác định cụ thể nội dung minh bạch thông tin của các doanh nghiệp liên quan đến sản phẩm mà họ cung cấp. Đương nhiên, Luật BVNTD không thể dự liệu tất cả các vấn đề và cơ chế ràng buộc trách nhiệm cho doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực của nền kinh tế. Mỗi lĩnh vực với đặc thù riêng về sản phẩm và cách thức cung cấp, tiêu thụ sẽ có những quy chuẩn khác nhau cho doanh nghiệp và những người có liên quan trong việc cung cấp thông tin. Vì vậy, xây dựng luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải được thực hiện đồng thời với công tác rà soát hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan để khi ghi nhận một quyền năng nào đó cho người tiêu dùng cần dự liệu những nguyên tắc cho việc hoàn thiện cơ chế thực thi ở những lĩnh vực pháp luật tương ứng. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức pháp lý cho người tiêu dùng cần được thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục hiệu quả. Đầu tư cho các cuộc hội thảo khoa học về vấn đề này có lẽ chỉ giải quyết các yêu cầu mang tính chiến lược, định hướng cho công tác xây dựng pháp luật và hoàn thiện cơ chế thực thi. Giá trị thực tế của một đạo luật hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ và sự hợp tác của các chủ thể là đối tượng áp dụng của đạo luật đó. Vì thế, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật vẫn còn là một nhu cầu cấp thiết trong điều kiện hiện nay.
Thứ hai, pháp luật đã đưa ra được khái niệm pháp lý hoàn chỉnh về người tiêu dùng, song cần nhận thức chính xác về giá trị ứng dụng của khái niệm này. Điều 1 Pháp lệnh quy định người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức. Như vậy, thuật ngữ người tiêu dùng không phải là khái niệm chung chung như nhân dân, đồng bào, thanh niên, phụ nữ… Người tiêu dùng phải được hiểu là những cá thể mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt (end consumer). Cá thể hóa khái niệm trên giúp từng người tiêu dùng cụ thể ý thức được chính họ đang có các quyền mà pháp luật quy định. Mỗi người đều có khả năng sử dụng các công cụ pháp lý để tự vệ khi có sự vi phạm, cho dù sự vi phạm chỉ là cá biệt, không phổ biến và giá trị thiệt hại không đáng kể.
Những hành vi xâm phạm đến quyền lợi của một hay một số ít người tiêu dùng dường như bị công luận bỏ quên có lẽ do tính cá biệt, riêng lẻ và hậu quả không lớn. Xã hội chỉ bị chấn động và dành sự quan tâm nhiều hơn đến các vụ việc có tác động lớn đến thị trường như vụ việc về điện kế điện tử, vụ việc nước tương, vụ việc duy trì giá xăng dầu, giá vận tải hành khách, vụ việc nhắn tin bằng điện thoại di động để lấy số thứ tự mua vé tàu lửa … Thực tế cho thấy, người tiêu dùng Việt Nam không có những phản ứng mãnh liệt (dù là phản ứng cá nhân hay tập thể) trước những hành vi vi phạm của các doanh nghiệp. Với những vụ việc mà thiệt hại gây ra cho một cộng đồng, phản ứng của người tiêu dùng chỉ là cung cấp các thông tin cho báo chí hay các cơ quan có thẩm quyền. Dường như không có người tiêu dùng, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng nào đệ đơn khiếu nại hay khởi kiện doanh nghiệp. Trong những vụ việc này, quan niệm mang tính đại chúng, không cụ thể về người tiêu dùng có những tác động khác nhau đến thực tiễn. Dước góc độ tích cực, thiệt hại của người tiêu dùng đã được cộng gộp để có được những con số gây chấn động dư luận. Phản ứng của dư luận thông qua các phương tiện truyền thông đã buộc các doanh nghiệp phải nhanh chóng chấm dứt hành vi vi phạm. Song, ở góc độ khác, quan niệm chung chung về người tiêu dùng có thể tạo nên tâm lý chậm phản ứng trong từng cá thể vì mỗi người tự nhận thấy thiệt hại của họ không đáng kể so với thiệt hại chung. Doanh nghiệp nại ra những khó khăn trong việc chi trả thiệt hại tủn mủn để đề xuất những giải pháp thiếu tính sòng phẳng như dùng tiền thu được một cách bất chính để làm từ thiện (!?). Với những vụ việc mà người chịu thiệt hại chỉ là các cá thể, sự phản ứng của người tiêu dùng thường yếu ớt do thiệt hại không lớn, và vị trí của họ chưa đủ để tạo nên sức ép cho doanh nghiệp. Cũng từ quan niệm mang tính khái quát, chung chung, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng cũng chậm phản ứng hay không tích cực trong các vụ việc mà số lượng người bị thiệt hại không đáng kể. Nếu có phản ứng, người tiêu dùng và các tổ chức bảo vệ họ cũng sẽ nhận được những lời lý giải từ phía doanh nghiệp cho rằng sự vi phạm chỉ là những sai sót nhỏ, dễ thông cảm. Như vậy, trong mọi trường hợp, nếu từng cá thể không phản ứng thì chắc chắn pháp luật không có cơ hội được thực thi.
Từ những lập luận trên, chúng tui đề nghị lưu ý khi xây dựng Luật BVNTD:
(i) Tính cá biệt và không phụ thuộc vào giá trị thiệt hại phải là đặc thù quan trọng của pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Vấn đề cần giải quyết không phải là việc thay đổi khái niệm người tiêu dùng mà phải là xây dựng cơ chế hợp lý để tạo điều kiện cho từng cá nhân - người tiêu dùng sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân bằng cách buộc người vi phạm bồi thường những thiệt hại, cho dù giá trị thiệt hại không lớn và xử lý hành vi vi phạm, cho dù chỉ xâm phạm đến một đối tượng cụ thể. Pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền không được từ chối giải quyết những yêu cầu mang tính cá nhân, giá trị bồi thường không lớn. Có như vậy, pháp luật mới thực sự trở thành công lý cho người dân và là công cụ hữu hiệu để từng người, tập thể người tiêu dùng tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

hunglaw

New Member
Re: [Free] Người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng

cho minh xin link di
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng bằng pháp luật hình sự một số nước trên thế giới – kinh nghiệm cho Việt nam Luận văn Luật 0
D Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật việt nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
C Người tiêu dùng đang mong muốn mua Cân bàn điện tử công nghiệp cho doanh nghiệp sử dụng Thị trường, Mua bán 0
D Nghiên cứu các nhân tố tác động đến ý định mua sắm trực tuyến (online shopping) của người tiêu dùng Luận văn Kinh tế 0
D Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng ngẫu hứng trực tuyến của người tiêu dùng tại TP HCM Luận văn Kinh tế 0
D Giáo trình Hành vi người tiêu dùng Luận văn Kinh tế 0
D Nghiên cứu phản ứng của người tiêu dùng với quảng cáo sữa tươi vinamilk Power point Marketing 0
D Phân tích ảnh hưởng của Nhóm tham khảo tới việc lựa chọn hàng hóa thiết yếu của người tiêu dùng trên thị trường Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
D phân tích tiến trình quyết định mua của người tiêu dùng đối với một sản phẩm cụ thể Marketing 0
D Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến với sản phẩm thời trang của người tiêu dùng tại thành phố Hồ Chí Minh Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top