yeuem_0908

New Member

Download Tiểu luận Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự miễn phí





Về nguyên nhân nhận thức: Ngoài trường hợp một số điều tra viên có trình độ thấp hơn luật sư nên mặc cảm rằng luật sư vào là “lắm điều nhiều lẽ” còn có trường hợp các điều tra viên không nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ tố tụng của mình là phải tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ thực hiện quyền bào chữa. Như đã nói ở trên, quyền bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, đối với nhiệm vụ chung của TTHS do vậy quyền này được nhà nước bảo đảm (Điều 132 Hiến pháp 1992 sửa đổi). BLTTHS năm 2003 đã cụ thể hóa nội dung này của Hiến pháp thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS – nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11) với quy định “Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của BLTTHS”. Nguyên tắc này còn thể hiện trong các quy định về nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng khi tống đạt quyết định khởi tố bị can và khi hỏi cung phải giải thích cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ về các quyền, nghĩa vụ của họ trong đó có quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa (Điều 126 và Điều 131 BLTTHS năm 2003), nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hay đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử người bào chữa trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003. Một bên có quyền bào chữa thì đương nhiên bên kia phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền đó. Khi đã là nghĩa vụ do luật định thì đấy là điều mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ, phải thực hiện, không có lựa chọn nào khác.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

SỰ THAM GIA BẮT BUỘC CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Tháng Mười 8, 2009 Để lại phản hồi Go to comments
NGUYỄN THÁI PHÚC*
*PGS.TS luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS năm 2003) quy định bị can, bị cáo, người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa (Điều 48, 49, 50). Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự (TTHS). Các chủ thể này được quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp luật không cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận lời buộc tội của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án. Họ có thể trực tiếp thực hiện (tự bào chữa) hay nhờ người khác bào chữa cho mình, và ngay cả khi họ đã nhờ người khác bào chữa thì điều này cũng không làm mất đi quyền tự bào chữa của họ. Tuy nhiên nếu nhìn từ tính phức tạp của quá trình giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề tự bào chữa là việc hết sức khó khăn. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều vấn đề pháp lý của luật nội dung cũng như luật tố tụng như hành vi bị truy tố có dấu hiệu tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì là tội gì, bị cáo có lỗi khi thực hiện hành vi đó hay không, lỗi cố ý hay vô ý, chứng cứ của bên buộc tội có hợp pháp hay không, việc bắt người, khám nhà có đúng luật hay không… Do vậy bào chữa thông qua sự trợ giúp của người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng là hình thức phổ biến và chủ đạo.
Quyền bào chữa được xem như là phương tiện pháp lý cần thiết để những chủ thể nói trên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thừa nhận quyền bào chữa là thừa nhận tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng – điều kiện không thể thiếu được cho việc xét xử khách quan, công minh. Càng mở rộng phạm vi quyền bào chữa bao nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy nhiêu và kết quả tương ứng là càng hạn chế khả năng làm oan sai người vô tội trong xét xử. Xu thế phát triển của TTHS nước ta đã đi theo hướng đó. Từ chỗ người bào chữa chỉ có thể tham gia vào vụ án khi kết thúc điều tra, BLTTHS năm 1988 – Bộ luật đầu tiên của nước ta thừa nhận sự tham gia của người bào chữa sớm hơn rất nhiều – từ khi có quyết định khởi tố bị can. BLTTHS năm 2003 đã có thêm bước tiến nữa khi quy định người bào chữa có quyền tham gia ngay từ khi có quyết định tạm giữ.
Thông thường sự tham gia của luật sư phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ. Họ có thể trực tiếp mời hay ủy quyền cho người thân của mình mời luật sư bào chữa. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt luật quy định sự tham gia của người bào chữa vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo. Đó là các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS, khi những chủ thể quy định tại điều khoản này hay người thay mặt hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hay đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử người bào chữa cho họ. Trong lý luận gọi đây là trường hợp bào chữa bắt buộc, còn trong thực tiễn gọi là bào chữa chỉ định. Những trường hợp này liên quan đến các bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần, hay bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình. Sự tham gia của người bào chữa lúc này có những khác biệt so với các trường hợp thông thường ở những điểm sau:
+ Cơ sở pháp lý đầu tiên để người bào chữa tham gia vào vụ án là sự chủ động thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua hình thức yêu cầu hay đề nghị cơ quan có thẩm quyền cử người bào chữa cho bị can, bị cáo.
+ Quyết định quản lý của cơ quan có thẩm quyền (Đoàn luật sư hay Ủy ban Mặt trận Tổ quốc là cơ sở pháp lý tiếp theo để người bào chữa tham gia vào vụ án chứ không phải là sự thỏa thuận giữa bị can, bị cáo với người bào chữa.
+ Bị can, bị cáo chưa thành niên hay có nhược điểm về thể chất hay tâm thần vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hay từ chối người bào chữa đã được cử cho họ nhưng quyền này không có tính tuyệt đối. Thí dụ, nếu chỉ có bị cáo vị thành niên từ chối người bào chữa còn người thay mặt hợp pháp của bị cáo không từ chối thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Đây là một quy định đúng đắn và tiến bộ xuất phát trước hết vì lợi ích của chính các bị can, bị cáo. Như đã nói ở trên, quyền bào chữa là quyền chủ thể của bị can, bị cáo do vậy trong các trường hợp thông thường thì ý chí của họ có tính quyết định đối với sự tham của người bào chữa vào trong vụ án và các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyết định đó của chủ thể. Nhưng trong các trường hợp quy định ở khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 thì quyền quyết định của các chủ thể này không còn tính tuyết đối mà bị phụ thuộc vào sự xem xét chấp nhận hay không chấp nhận của Tòa án. Lý do hạn chế quyền chủ thể ở đây cũng là lý do về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa: các chủ thể là những người có khó khăn hơn so với các trường hợp bình thường khác trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình nên cần có sự can thiệp từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Thí dụ như khó khăn về tâm lý khi phải đối mặt với điều luật có hình phạt tử hình, khó khăn về thể chất, về tâm thần, và kể cả khó khăn về vật chất trong việc mời người bào chữa hay tự bào chữa. Tuy nhiên đây mới chỉ là hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và chỉ áp dụng đối với hai đối tượng là bị can, bị cáo vị thành niên hay có nhược điểm về thể chất hay tâm thần. Ý kiến của chúng tui là cần luật hóa nội dung này và phải mở rộng cho cả người bị tạm giữ là vị thành niên hay có nhược điểm về thể chất hay tâm thân, cho cả bị can về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Như vậy càng nhấn mạnh được tính chất tham gia bắt buộc của người bào chữa và càng làm nổi bật được ý nghĩa của chế định này.
+ Chi phí cho người bào chữa do Nhà nước chịu.
Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong TTHS là quy định đầy tính nhân đạo của BLTTHS năm 2003 nước ta. Quy định của luật về sự tham gia của người bào chữa vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo như là sự nhân đôi bảo đảm quyền bào chữa cho họ.
Quyền bào chữa không chỉ cần thiết cho bị can, bị cáo mà còn cần thiết và có lợi cho chính các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án, xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Chúng tui hoàn toàn đồng tình với ý kiến xem sự tham gia của người bào chữa từ giai đoạn điều tra như là...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top