[Free] Luận văn Tìm hiểu kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỉ XI-XVIII

Download Luận văn Tìm hiểu kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỉ XI-XVIII miễn phí





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Lịch sử vấn đề và nguồn sử liệu
III. Phương pháp nghiên cứu
Chương I: NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ-KINH TẾ CỦA NGOẠI
THưƠNG VIỆT NAM TRONG CÁC THẾ KỈ XI-XVIII
I. Điều kiện lịch sử - địa lý
II. Những điều kiện kinh tế- xã hội làm tiền đề cho hoạt động ngoại thương.
1. Chính sách trọng nông của các triều đại phong kiến.
2. Tầng lớp thương nhân.
3. Về sự hình thành của nền kinh tế hàng hóa và thị trường dân tộc thống nhất
Chương II : TÌNH HÌNH NGOẠI THưƠNG VIỆT NAM TRONG CÁC THẾ KỈ
XI-XVIII
A. Khái niệm ngoại thương
B. Tình hình ngoại thương dưới các triều đại phong kiến dân tộc
I. Thời Lý-Trần ( Thế kỉ XI-XIV)
II. Thời Lê ( Thế kỉ XV)
III. Thời Nam-Bắc phân tranh và thời Tây Sơn (Thế kỉ XVI-XVIII)
Chương III: VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NGOẠI THưƠNG ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG CÁC THẾ KỈ XI-XVIII
I. Đánh giá vai trò của ngoại thương trong tiến trình phát triển của lịch sử dân
tộc từ thế kỉ XI-XVIII.
II. Vai trò tác dụng của ngoại thương đối với xã hội Việt Nam:
1. Đối với chính quyền phong kiến
2. Đối với nhân dân
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

n tiền, Tông Từ cùng với Lê Dao mỗi người
chiếm lấy 100 quan. Việc phát giác đều bị tội”128. “Các quan ty vô cớ mà đi riêng ra
122
Theo Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư (tập 3), Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 1968, trang 219.
123 Viện sử học Việt Nam, Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1991, trang
58-59.( Điều 26, chương Vệ cấm).
124 Viện sử học Việt Nam, Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1991, trang
59, (điều 27, chương Vệ cấm) .
125
Viện sử học Việt Nam, Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1991, trang
95-96, ( Điều 125, chương Vi chế).
126
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử toàn thư (tập 4), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1968, trang 44-45.
127
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử toàn thư (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1968, trang 277
128 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử toàn thư (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1968, trang 94.
Luận văn tốt nghiệp - Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỉ XI-XVIII
SVTH: Đào Thị Phương Huyền 66
những trang ngoài Vân Đồn129, các trấn cửa quan ải thì bị xử tội đồ hay lưu thưởng
cho người tố cáo tước một tư”130. Và ngay chính hoạt động buôn bán ở trong nước
cũng bị triều đình kiểm soát nghiêm ngặt: “Người ở trang Vân Đồn, chở hàng hóa
Trung Quốc lên kinh thành mà không có giấy của An Phủ ty cấp cho, khi đến bến
Triều Đông lại không đến cho Đề bạc ty kiểm soát, đã đem đi bán lén lút, cùng là khi
về không có giấy của Đề bạc ty cấp cho; đến chỗ thông mậu (buôn bán trao đổi hàng
hóa với người nước ngoài trường lại không đến cho An Phủ ty kiểm soát mà đã về
thẳng trang, thì đều phải biếm một tư và phạt tiền 100 quan, thưởng người tố cáo một
phần ba (số tiền phạt). Nếu đem hàng hóa đến các nơi làng mạc bán giấu thì xử biếm
ba tư và phạt tiền 200 quan; thưởng cho người tố cáo cũng một phần ba. An phủ ty, đề
bạc ty vô tình không biết đều phải biếm một tư; cố ý dung túng thì biếm một tư và bãi
chức”131. Đại Việt sử kí toàn thư cũng cho biết: “…Nếu là quân dân đi buôn bán cũng
phải xin giấy thông hành của quan lộ huyện. Tuần kiểm các trấn và thủ bá các nơi
trên đường thủy bộ cần xét hỏi rõ ràng, nếu không có giấy thông hành thì lập tức
ngăn lại không cho đi…”132.
Mặc dù hoạt động thương nghiệp bị kiểm soát gắt gao nhưng trong điều kiện “hòa
bình lập lại nhu cầu phục hồi và phát triển nông nghiệp xóm làng, xây dựng lại kinh
thành, trấn lị đã thúc đẩy sự phục hồi và phát triển nhanh chóng của các nghề thủ công.
Nhiều làng nghề chuyên nghiệp nổi lên như Bát Tràng, Nghĩa Đô, Huê Cầu, Hương
Canh, Mao Điền, Bất Bế…Theo Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi thì Thăng Long lúc bâý
giờ được chia thành 36 phường, mỗi phường chuyên một loại nghành nghề riêng:
“Phường Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, đồ đài mâm, vòng, gấm trừu, dù lọng, phường
Yên Thái làm giấy, phường Thụy Chương và phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa,
phường Hà Tân nung đá vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều…” . Góp phần vào sự
phát triển của thủ công nghiệp có các công xưởng của nhà nước với tên gọi chung là
cục Bách tác (chuyên đúc tiền, tạo vũ khí, đóng thuyền, làm đồ dùng cho vua quan như
mũ, áo, giày, hốt…). Nhà vua cũng có một khu vực dệt riêng do cung nữ phụ trách.
Nhà nước có chính sách lựa chọn những thợ thủ công giỏi trong cả nước trong cả
nước, được tuyển theo chế độ lao dịch (gọi là công trượng, về sau gọi là thợ “am
hiểu”). Trên cơ sở của sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, việc lưu
thông buôn bán được phục hồi và ngày càng mở rộng. Các chợ địa phương mọc lên
ngày càng nhiều Theo Đại Việt sử kí toàn thư, năm 1477 Nhà nước qui định lệ lập chợ
mới như sau: “ Các huyện, châu, xã ở các xứ trong nước, nhân dân ngày một nhiều,
nơi nào muốn mở chợ mới để tiện việc buôn bán thì quan phủ, huyện, châu khám xét
quả thực tiện lợi cho dân thì làm bản tâu lên, cho theo tiện lợi mà họp chợ…”133. Để
tiện cho việc buôn bán trao đổi nhà Lê cho bỏ tiền giấy thời Hồ và cho đúc tiên mới
qui định rõ: 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng. Các đơn vị đo lường cũng được
thống nhất. Thăng Long dưới thời Lê sơ vẫn là nơi buôn bán lớn nhất của cả nước, dân
qui tụ về đây làm ăn buôn bán đông đúc đến nỗi quan cai quan phủ Phụng Thiên sợ
129 Vân Đồn là thương cảng trao đổi hàng hóa lớn của nước ta với nước ngoài.
130 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử toàn thư (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1968, trang 94.
131
Viện sử học Việt Nam, Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1991, trang
210-211 (Điều 63, chương Tạp luật).
132 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử toàn thư (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1968, trang 93.
133 Theo Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư (tập 3), Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 1968, trang 259.
Luận văn tốt nghiệp - Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỉ XI-XVIII
SVTH: Đào Thị Phương Huyền 67
lệnh đuổi hết về nguyên quán. Năm 1481, tả trung doãn Quách Đình Bảo phải dâng sớ
xin vua bãi bỏ lệnh đó134: Chỉ những kẻ tạp cư vô loại thì nên đuổi về, còn người
nguyên có hàng chợ phố xá…hãy cho tạm được trú ngụ buôn bán, sinh nhai…”135.
Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi buôn bán ở trong nước đã khiến nhà nước
thời Lê sơ ban hành một loạt các chính sách ưu tiên phát triển thương nghiệp như qui
định lệ lập chợ mới, thống nhất tiền tệ, đo lường… và trừng phạt nghiêm khắc những
ai có hành động cản trở sự lưu thông hàng hóa, buôn bán gian lận. Theo Luật Hồng
Đức: “Những người coi chợ trong kinh thành sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xuy,
đánh 50 roi, biếm một tư, lấy thuế chợ quá nặng biếm hai tư, mất chức coi chợ, bồi
thường tiền gấp đôi trả cho dân; tiền phạt thưởng cho người cáo giác theo như lệ. Nếu
lấy thuế chợ không đúng luật thì xử tội đánh 80 trượng và dẫn đi rêu rao trong chợ ba
ngày. Người thu thuế chợ trong các lộ, các huyện, các làng quá nặng bị xử tội thêm
một bậc”136; “Trong các chợ tại kinh thành và thôn quê, những người mua bán không
theo đúng cân, thước, thăng, đấu của nhà nước mà làm riêng của mình để mua bán thì
xử tội biếm hay đồ”137. “Những người làm đồ khí dụng giả dối và vải lụa ngắn hẹp để
đem bán, thì bị tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, hàng hóa phải sung công. Quan giám
đương và người đứng đầu không xem xét cố ý cho thợ làm giả dối thì bị phạt tiền hay
biếm, bãi chức, tiền phạt thương cho người cáo giác; lại theo việc nặng nhẹ mà định
phạt, nếu làm về việc công thì tội thêm một bậc”138. “Những người coi chợ và người
lính thợ thấy trong chợ có người làm đồ vật giả dối hay phá hủy tiền đồng mà tha thứ
không bắt trình quan, thì bị tội biếm hay phạt. Người ăn hối lộ dung túng việc đó thì
tội cũng giống như chính phạm”139. “Những người từ chối không tiêu tiền đồng sứt mẻ
hay là đ
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top