Download Tiểu luận Sự phát triển nguồn nhân lực - vai trò của nó với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và với nền kinh tế tri thức ở nước ta, thực trạng và thách thức miễn phí





Về cơ bản, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Chính vì vậy, lực lượng lao động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực sản xuất truyền thống là nông-lâm-ngư nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phân bố trên sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lực lượng lao động trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và tăng dần trong các ngành công nghiệp dịch vụ. Năm 2000 có sự chuyển dịch rõ rệt so với năm 1996 theo hướng: giảm cỏ về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1996 có 32.601.918 người làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân nói chung, đến năm 2000 giảm xuống còn 22.669.907 người, chiếm62,56%; trong khi đó, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 3.566.513 người( năm1996) tăng lên 4.743.705 người( năm 2000) và tỷ lệ so tổng số đã tăng từ 10,55% lên 13,15%; lao động làm việc trong các ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ : từ 6.643.564 người lên 8.791.950 người và từ 19,65% lên 24,29%(TS.Trương Văn Phúc- thực trạng lực lượng lao động ở Việt Nam giai đoạn 1996-2000 và khả năng giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005)



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ế-xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoá, hiện đại hoá. trong đó phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững.
III. Thực trạng, thách thức và xu hướng phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam.
Số lượng (quy mô) nguồn nhân lực Việt Nam.
Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam.
Việt Nam là một trong những nước đông dân số với quy mô dân số đứng
thứ hai Đông nam á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất nước với cơ cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 chiếm 60% trong tổng số 35,9 triệu người lao động: nguần bổ sung hàng năm là 3%-tức khoảng 1,24 triệu người. Theo tổng điều tra dân số ngày 1-4-1999, quy mô dân số nước ta là 76,3 triệu người và dự tính đến năm 2010 quy mô dân số nước ta vào khoảng 95 triệuvà số người trong tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm 60,7% dân số. Dự báo thời kỳ 2001 đến 2010 cần tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 11-12 triệu lao động (chưa kể số lao đông tồn động các năm chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm việc mới. Tính đến 1/7/2000, tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi tốc độ tăng bình quân hàng năm của thời kỳ này là 1,5% một năm.
Chỉ tính riêng số lượng cán bộ chính quyền cơ sở ( bao gồm cán bộ công tác ở các xã, phường, thị trấn) cũng cho ta thấy nước ta có số lượng lao đông đảo, số lượng lao động ngày một gia tăng. Theo quy định trong Nghị định 174/CP ban hành tháng 9 năm 1994, cơ cấu số lượng của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn gồm có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 5 uỷ viên uỷ ban. Với khoảng 1 vạn xã, đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở gồm có số lượng trên dưới 70000 người. Tuy nhiên, nếu tính theo cách định biên theo cơ cấu cán bộ cơ sở theo Nghị định 50-CP ngày 26-7-1995 thì ngoài số uỷ viên uỷ ban đã nêu trên, còn có chức danh khác được bố trí theo yêu cầu của từng địa phương với mức quy định như sau:
- Dưới 5000 dân: 12 cán bộ.
- Từ 5000 dân đến dưới 10000 dân : 14 cán bộ.
- Từ 10000 dân đến 15000 dân :16 cán bộ.
- Từ 15000 dân đến 20000 dân :18 cán bộ.
- Từ 20000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ.
Từ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số cán bộ chính quyền cơ sở gồm chủ tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân và các thành viên của uỷ ban dao động từ khoảng 7 đến 13 người tuỳ theo từng loại xã.
Đến Nghị định 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày 23-1-1998 số lượng cán bộ chính quyền cơ sở loại xã sau đây được ấn định như sau :
- Dưới 10000 dân :17-19 cán bộ.
- Từ 10000 đến 20000 dân: 19-21 cán bộ.
- Trên 20000 dân cứ thêm 3000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá 25 cán bộ.
Như vậy, nếu trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số lượng cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở đã tăng lên ở từng loại xã từ 3 đến 5 người và nếu lấy bình quân mỗi xã có khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính quyền cơ sở trong cả nước sẽ vào khoảng trên dưới 150.000 người. So với đội ngũ công chức hành chính trong cả nước từ cấp huyện lên trung ương hiện có khoảng trên dưới 200.000 người, thì đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở không phải là nhỏ. Ngoài số đó ra còn có khoảng 200.000 là đại biểu hội đồng dân cư, những người đang được chính quyền cơ sở trao những quyền hạn nhất định về mặt chính quyền, hợp thành một đội ngũ cán bộ đông đảo ở cơ sở và trong toàn quốc.
So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế giới thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt Nam xếp thứ hai, chỉ sau Inđônêxia. điều đó được thể hiện qua bảng sau:
Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN
Nước
Dânsố 1994
(Triệu người)
Tỷ lệ tăng dân số(%)
Lực lượng lao động
1960-1992
1992-2000
1994 (triệu người)
% tăng giai đoạn 90-94
% trong dân số
Brunây
0,284
3,8
2,1
0,112
---
Inđônêxia
192,2
2,2
1,7
81,2
1,1
43
Malaixia
19,5
2,6
2,1
7,85
2,8
38
Philippin
68,6
2,7
2,0
27,48
3,0
56
Thái Lan
59,4
2,4
1,1
32,84
1,1
56
Việt Nam
72,5
2,2
2,1
33,7
2,8
49
Xingapo
2,93
1,7
1,7
1,69
2,9
56
Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người,Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số. Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm được tỷ lệ tăng dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao trong khu vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nước trong khối: Malaixia là 2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân số nhanh và còn được duy trì như vậy, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động của Việt Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng khoảng một triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể đến số người ngoài độ tuỏi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên, tạo thành một nguần cung cấp về lao động khá dồi dào: cuối năm 1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-1,4 triệu trẻ em (nguần: kim Ngọc Cương, ''phân tích và dự báo thị trường lao động ở nước ta'', Bộ kế hoạch và đầu tư, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997, tr.19).
Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số người trong và ngoài độ tuổi lao động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động cơ học làm tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay như: số bộ đội giải ngũ; số lao động đi làm ở các nước Đông Âu, Trung Đông trở về; số người tỵ nạn ở Thái Lan, Hồng Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi hương…
Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được bổ sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những ưu thế cho Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực va thế giới.
Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng nguồn nhân lực này.
Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động đã qua đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực.
Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 74% công chức có trình độ từ đại học trở lên.
Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thường người ta hay quan tâm đến số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo hàng năm ở các trường trung học chuyên nghiệp, trường công nhân kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng trong quốc gia đó. Bởi đó là con ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top