thuan.tran72

New Member

Download Đề cương ôn thi tốt nghiệp Ngữ văn 12 miễn phí





4. Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
1/ Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, người làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết không nhiều, nhưng được coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội này cộng với một tấm lòng thiết tha hiếm có đã tạo nên những trang viết sâu sắc, cảm động nhất của ông. Con người có một đời văn hóa khá dài ấy (trên năm mươi năm) không hiểu kĩ tính thế nào mới trình làng vẻn vẹn có hai tập truyện ngắn: Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962). Nhưng nghệ thuật không quen đo đếm ở số lượng. Chỉ một truyện như Vợ nhặt (rút từ tập Con chó xấu xí;) – vốn được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân – cũng có thể là niềm mơ ước của nhiều người cầm bút. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, do đơn đặt hàng của báo Văn nghệ, Kim Lân mới viết lại. Riêng điều đó thôi đã thấy Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo[1] !...
Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la...
Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng cách của nhạc - cái cách ám thị, khước từ mô tả trực quan - để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch          
9. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (trích)
Hoàng Phủ Ngọc Tường
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
- Tiểu sử: + Sinh 1937 tại TP. Huế
+ Quê gốc ở Quảng trị, sống, học tập và hoạt động cách mạng ở Huế -> cuộc đời tác giả gắn liền với Huế nên tình cảm, tâm hồn thấm đẫm nền văn hoá của mảnh đất này.
- Sự nghiệp văn học:
+ Phong cách nghệ thuật:
* Là cây bút uyên bác, giàu chất trí tuệ.
* Tài hoa, trí tưởng tượng phong phú lãng mạn đậm chất thơ.
* Lối viết hướng nội, xúc tích, có chiều sâu văn hoá, cảm hứng nhân văn.
+ Tác phẩm chính: (SGK)
2. Tác phẩm – Thể loại.
- Xuất xứ: - Hoàn cảnh ra đời - Cảm hứng sáng tác:
- Vị trí đoạn trích: bài kí gồm 3 phần, đoạn trích nằm ở đoạn đầu và đoạn kết của bài kí.
-> Là tác phẩm tiêu biểu cho đặc trưng thể loại và văn phong của HPNT.
II- Tìm hiểu văn bản
*Nội dung đoạn trích
H×nh t­îng T¸c gi¶
H×nh t­îng S«ng H­¬ng
CS LÞch sö
CS thiªn nhiªn
Con s«ng v¨n ho¸
1. Vẻ đẹp của dòng Sông Hương
a. Vẻ đẹp được phát hiện từ cảnh sắc thiên nhiên.
* Từ Thượng nguồn
- Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ.
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già.
Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
-> Sự hợp âm của những nốt bổng, nốt trầm để mãi ngân nga vang vọng giữa đại ngàn của Trường Sơn.
+ Sông Hương như 1 cô gái Di gan phóng khoáng man dại.
Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
Cũng chính rừng già nơi đây đã chế ngự sức mạnh bản năng của người con gái Sông Hương.
-> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
- Khi ra khỏi rừng già.
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang 1 sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của 1 vùng văn hoá xứ sở.
-> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Nhận xét: Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, HPNT đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú gợi cảm xác đáng đầy sức hấp dẫn.
*Bình một số chi tiết đặc sắc.
(+ Bản tình ca của rừng già. + Cô gái di gan phóng khoáng man dại…)
* Về Châu thổ
- Sông Hương tìm đến Huế.
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm.
Từ ngã ba Tuần -> chảy theo hướng Nam -Bắc qua Hòn Chén.
Chuyển hướng sang Tây- Bắc vòng qua Nguyệt Biển, Lương Quán.
Đột ngột rẽ 1 hình cung thật tròn về phía đồng bằng ôm lấy chân đồi Thiên Mục, xuôi dần về Huế.
-> Như 1 cuộc tìn kiếm có ý thức để đi gặp thành phố tương lai của nó.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo vô cùng.
Qua Tam Thai, Vọng Cảnh DS mềm như tấm lụa…
DS như 1 tấm gương phản chiếu màu sắc…
Đến vùng rừng thông u tịch, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn: DS mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc như triết lí, như cổ thi.
Tới ngoại ô Kim Long: vẻ đẹp tươi vui….
Nhận xét: -> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của HPNT như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim. Với NT so sánh cân đối, hài hoà đậm chất thơ, với sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng, nhà văn đã khắc hoạ được vẻ đẹp dòng sông huyền ảo, lung linh sắc màu, người đọc đặc biệt ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính của Sông Hương gắn với thành quán lăng tẩm của vua chúa thủa trước.
*Chọn những hình ảnh so sánh, những câu văn giàu màu sắc, tạo hình và ấn tượng
- Cuộc gặp gỡ giữa Sông Hương – Huế
Huế
Sông Hương
+ Cầu Tràng Tiền = vành trăng non in gần trên nền trời.
-> một trong những biểu tượng của Huế như mơ màng chờ đợi, như vẫy gọi dòng sông.
+ Những lâu đài của đất cố đô soi bóng xuống dòng sông xanh biếc.
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ = 1 tiếng vang vọng nói ra của tgiả.
-> Vẻ e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng.
+ Sông Hương và Huế hoà vào làm 1, HS làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu lắng của Sông Hương.
+ Sông Hương giảm hắn lưu tốc, suôi đi thực chậm… yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
Nhận xét: Cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương được HPNT khám phá, phát hiện từ góc độ tâm trạng: Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn của tình yêu sau 1 hành trình dài trở nên vui tươi và mềm mại. Sông Hương qua NT ...
 
Top