tron_hoc

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Phần thứ nhất

Đặt vấn đề

Đất nước ta đang trên đà phát triển kinh tế nhiều thành phần. Nhiều hãng đầu tư đưa vốn vào thành lập các công ty liên doanh, liên kết... dù rằng sự phát triển kinh tế những năm gần đây đa dạng, phong phú qua nhiều phương cách nhưng tóm lại vẫn phát triển dưới sự quan sát của Nhà nước ta. Chúng ta thừa nhận việc xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp trước đây sang nền kinh tế nhiều thành phần là đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Để góp phần vào xây dựng nền kinh tế nước nhà ta phải lựa chọn kinh tế cho phù hợp, nhất là trong giai đoạn hiện nay nên em đã chọn đề tài “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường”.
Để làm sáng tỏ đề tài chúng ta cần giải quyết những vấn đề sau:
Một là: Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế Nhà nước.
Hai là: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay.
Ba là: Các chức năng kinh tế của Nhà nước.
Bốn là: Tăng cường kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình viết tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong thầy hướng dẫn thông cảm. Cuối cùng em xin chân thành Thank thầy đã giúp đỡ em hoàn thành tiểu luận này.

Phần thứ hai: Nội dung

Chương I

Mục đích của việc nghiên cứu vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

I- Nguyên nhân.
Đất nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước gây ra những biến đổi sâu sắc về nhận thức thực tiễn, lý luận về nền kinh tế ở nước ta.
Vì vậy chúng ta phải đi sâu nghiên cứu vấn đề này để hiểu rõ bản chất sự vận động của nền kinh tế nước ta nhằm có hướng đi đến để phát triển nền kinh tế đất nước.
II- ý nghĩa:
- Việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, lạm phát, đi dần vào thể ổn định và phát triển lâu dài.
- Lý giải các khái niệm và các phạm trù kinh tế học mới là cơ sở lôgíc cho việc nhận thức lại bản chất của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang hướng tới.
- Đồng thời dựa trên cơ sở phân tích thực trạng nền kinh tế nước ta để trình bày các quan điểm khoa học làm cơ sở phương pháp luận cho thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta.
- Qua việc nghiên cứu nền kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là nâng cao trình độ năng lực kinh tế của mỗi người đặc biệt với mỗi sinh viên kinh tế nhằm có phương pháp định hướng sản xuất kinh doanh đúng hướng và đạt hiệu quả cao.






Chương II

Tìm hiểu về nền kinh tế thị trường.


I- Cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế .
1. Cơ chế kinh tế:
a. Cơ chế: Là khái niệm dùng chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành hệ thống mà nhờ đó hệ thống có thể hoạt động.
b. Cơ chế kinh tế: Là tổng thể các yếu tố có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực dẫn dắt nền kinh tế phát triển.
Cơ chế kinh tế mang tính khách quan vốn có của một nền kinh tế. Mỗi nền kinh tế đều có một cơ chế đặc trưng của nó. Dựa vào đó người ta phân loại các nền kinh tế thành:
- Nền kinh tế chỉ huy: Vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
- Nền kinh tế thị trường: Vận hành theo cơ chế thị trường.
- Nền kinh tế hỗn hợp: Vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước.
2. Cơ chế quản lý kinh tế.
Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển theo một khuynh hướng mong muốn khi có một cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế đó một mặt tuân thủ được tất cả các yêu cầu của các qui luật kinh tế khách quan (qui luật cung - cầu, giá cả ...). Mặt khác phải có một hệ thống các công cụ kinh tế và chính sách quản lý kinh tế thích hợp.
Vậy cơ chế quản lý kinh tế là khái niệm dùng để chỉ cách mà qua đó Chính phủ (Nhà nước) tác động vào nền kinh tế để định hướng nền kinh tế tự vận động đến các mục tiêu đã định.
Qua trên ta thấy:
- Cơ chế kinh tế là cách tự vận động của nền kinh tế. Nó mang tính chất khách quan.
- Cơ chế quản lý kinh tế là phướng thức tác động của Nhà nước nhằm định hướng nền kinh tế. Nó mang nhân tố chủ quan.
- Nhà nước tác động vào nền kinh tế thông qua cơ chế kinh tế chứ không tác động trực tiếp vào nền kinh tế. Tuy nhiên, với sự tác động của Nhà nước đều ít nhiều làm thay đổi trạng thái nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ:
+ Nếu Nhà nước nhận thức được cơ chế kinh tế để vận dụng và coi nó là đối tượng để nhận sự tác động của cơ chế quản lý kinh tế thì nhất định các chính sách kinh tế sẽ đem lại kết quả mong muốn.
+ Ngược lại nếu Nhà nước không nhận thức được cơ chế kinh tế, tác động vào nền kinh tế bằng cơ chế quản lý chủ quan duy ý chí thì chính sách kinh tế sẽ đem lại kết quả ngược mục tiêu mong muốn.
+ Nếu Nhà nước không nhận thức được vai trò của mình trong việc điều khiển, quản lý kinh tế thì nền kinh tế sẽ tự vận động theo cơ chế tự do.
- Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm các yếu tố.
a. Mục tiêu quản lý kinh tế. Tất cả các nước trong nền kinh tế thế giới hiện nay đều coi mục tiêu điều khiển của mình:
+ Quản lý, phân phối sự dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực của sản xuất, đảm bảo tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, bền vững.
+ Giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội.
+ Phát huy những thế mạnh kinh tế của mình.
+ Giữ gìn môi trường sinh thái trong sạch.
b. Các công cụ quản lý kinh tế gồm:
+ Các chính sách kinh tế.
+ Pháp chế kinh tế (gồm hệ thống luật và các cơ quan thi hành luật).
+ Chương trình hoá các mục tiêu, dự án.
c. Các cơ chế kinh tế: Bất cứ một nền kinh tế nào cũng tự thân vận động đến các mục tiêu tăng trưởng ổn định, công bằng và hiệu quả. Tuy nhiên, nếu con người nhận thức được cơ chế tự vận động của nền kinh tế để định hướng nền kinh tế đến mục tiêu mong muốn thì có thể rút gắn chặng đường phát triển.
Chính phủ của mỗi nước đều phải căn cứ vào điều kiện của mình để xác định cho mình một cơ chế kinh tế phù hợp nhằm phát triển đất nước. ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng (1986). Đảng và Nhà nước đã xác định sự nghiệp đổi mới kinh tế. Tiến hành đồng bộ, toàn diện việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Xác định cơ chế kinh tế ở Việt Nam là cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
II- Cơ chế thị trường và các qui luật của kinh tế thị trường.
1. Kinh tế thị trường và cơ chế thị trường:
- Kinh tế thị trường: Là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
- Cơ chế thị trường: Là tổng thể các nhân tố quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các qui luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung - cầu và giá cả thị trường.
Bản chất của cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do. Nó có các đặc trưng cơ bản sau:
- Các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài chính, tài nguyên thiên nhiên. Về cơ bản được xác định một cách khách quan thông qua sự hoạt động 2của các qui luật kinh tế đặc biệt là qui luật cung - cầu.
- Tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá.
- Động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận. Bất kỳ một hành vi của một cá nhân, một doanh nghiệp hay của cả Chính phủ trong nền kinh tế đều nhằm mục đích lợi nhuận.
- Tự do lựa chọn việc sản xuất kinh doanh và tiêu dùng từ phía các nhà sản xuất và những người tiêu dùng thông qua các mối quan hệ kinh tế.
- Thông quan sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường luôn luôn duy trì được sự cân bằng giữa sức cung và sức cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá.
- Cạnh tranh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất.
- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường tự do cá nhân và công bằng xã hội, giữa đẩy nhanh độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Cơ chế thị trường hiện nay ngày càng phù hợp với cơ sở kỹ thuật mới của sản xuất và lưu thông gắn liền với sự biến đổi cơ cấu kinh tế. Khu vực dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn. Có vai trò vô cùng quan trọng cho việc phát triển tăng trưởng ổn định sản xuất và đời sống.
- Trước đây, ta đã dập khuôn một cách máy móc mô hình quản lý của Liên Xô (cũ). Mô hình quản lý tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, các chỉ tiêu pháp lệnh hay còn gọi là cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế này lúc đầu tỏ ra phù hợp tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Tuy nhiên, càng về sau cơ chế này càng tỏ ra không phù hợp và xuất hiện nhiều tiêu cực làm hạn chế mầm mống của sự phát triển, làm tăng thêm, bộc lộ những mâu thuẫn vốn có trong xã hội. Làm cho lòng tin của nhân dân vào Đảng bị giảm sút.
Để đi sâu nghiên cứu cơ chế thị trường ta phải tìm hiểu kỹ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Với các đặc trưng chủ yếu:
- Quản lý kinh tế băng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá quá đầy các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng mọi hệ thống chi tiêu pháp lệnh từ trên xuống.
- Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình.
- Coi thường quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức bao cấp qua giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách Nhà nước mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
Những đặc điểm trên dẫn đến không tránh khỏi bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian và kém năng động. Từ đó sinh ra một đội ngũ các cán bộ kém năng lực quản lý, không theo kịp nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách quan liêu, cửa quyền.
Cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển nền kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã được Đại hội VI của Đảng xác định và được Đại hội VII của Đảng khẳng định là “Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành toàn bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
ở mỗi nước điều kiện kinh tế, chính trị xã hội khác nhau do đó nền kinh tế thị trường cũng có những dạng cụ thể khác nhau. Vì vậy, không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này là bản sao của nền kinh tế thị trường nước khác. Một tiêu thức cơ bản để phân biệt một nền kinh tế thị trường giữa các nước là mục đích chính trị xã hội mà các Chính phủ lựa chọn, làm định hướng cho sự lựa chọn của nền kinh tế thực chứng. Khi nền kinh tế được điều khiển đến các mục tiêu mong muốn như: Công bằng xã hội và đạt hiệu quả tăng trưởng bền vững, trong sạch môi trường và môi sinh, xã hội văn minh, xã hội chủ nghĩa v.v.. Tức là nền kinh tế ấy đã nhận thức trên bình diện chuẩn tắc thì lúc đó ý nghĩa chính trị xã hội của nó mới được bộc lộ ra. Đồng thời, lúc đó các quan hệ cung cầu, giá cả sẽ được vận dụng để đạt mục tiêu kinh tế xã hội.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất như sau:
- Xã hội chủ nghĩa là định hướng chính trị - xã hội của một nền kinh tế xét từ góc độ kinh tế.
Từ đó ta thấy: Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng lý tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Ta phải loại trừ thành kiến: “Thị trường là chủ nghĩa tư bản”: “Kế hoạch là chủ nghĩa xã hội” và các quan điểm cùng loại.

Ai cũng nhận thấy rằng những tiến bộ về kinh tế đã đạt được trong những năm qua là sự cố gắng lớn của Đảng và toàn dân song chưa cơ bản và vững chắc. Đó là những tồn tại và cản trở nền kinh tế nước ta.
Một là: Thu nhập quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp nhất trong khu vực và trên thế giới.
Hai là: Cơ sở vật chất kỹ thuật đặc biệt là cơ sở hạ tầng rất lạc hậu hay không đồng bộ cần thải loại, thay thế.
Ba là: Thị trường vật tư và tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu của nước ta vẫn bị thu hẹp.
Bốn là: Dân số tăng nhanh số thanh niên đến tuổi lao động ngày càng đông cùng với tốc độ lạm phát gây sức ép mạnh đối với nền kinh tế.
Năm là: Cán cân thanh toán nội bộ và quốc tế chưa cân đối. Nợ nước ngoài lớn không có khả năng thanh toán gây sức ép về vốn, giảm đầu tư của quốc tế đối với nước ta.
3. Các giải pháp cơ bản.
Việc chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta đòi hỏi những giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất: Phải tạo ra sự ổn định chính trị - xã hội để củng cố lòng tin và tính tích cực của đầu tư.
Thứ hai: Khai thác được hai tiềm năng nguồ lực trong và ngoài nước nhằm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Thứ ba: Đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển thương nghiệp đặc biệt là hoạt động ngoại thương làm cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hoà nhập vào thị trường thế giới.
Thứ tư: Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị trường. cần đa dạng hoá sở hữu xác định đúng mức phạm vi hoạt động của các xí nghiệp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động thuận lợi.
Thứ năm: Phát triển các loại thị trường hàng tiêu dùng dịch vụ và các yếu tố sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá.
Thứ sáu: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam thông qua xây dựng thể thống luật pháp chính sách kinh tế. Cần đào tạo lại và đào tạo moí đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước trong quá trình chuyển sang cơ chế mới.

Phần thứ ba.

Kết luận

Ngày nay trên thế giới hầu như không có quốc gia nào từ bỏ vai trò điều tiết thị trường nhưng ở các mức độ thành công khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào thái độ và tài nghệ của các cơ quan Nhà nước. Đối với nước ta đây là một công việc phức tạp và mới mẻ, những biến đổi trong những năm qua chỉ là bước đầu khẳng định chủ trường chuyển sang cơ chế thị trường là đúng đắn, đạt được hiệu quả cao.
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là kết quả lao động và trí tuệ do quần chúng nhân dân sáng tạo ra dưới sự lãnh đạo của Đảng. Con đường đi tới còn phải trải qua nhiều thử thách quyết liệt nhưng chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, dưới sự đoàn kết nhất trí, với đức tính cần cù, sáng tạo của nhân dân ta chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng thành công XHCN, đưa đất nước ta ngày càng phát triển văn minh giàu đẹp.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

heheli

New Member

Download Tiểu luận Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường miễn phí





Trong kinh tế thị trường Nhà nước với tư cách là người điều hành quản lý xã hội đồng thời là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường đảm bảo các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình, giao thông vận tải. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành, dùng các chính sách như: Chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động vạch ra kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra.
Theo David Begg- Giáo sư kinh tế học trường tổng hợp Luân Đôn, Anh và hai giáo sư kinh tế học người Mỹ Stantry Fischer và Rudiger Dorubush thì nguyên cơ chung để Chính phủ can thiệp vào thị trường là những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và phải có sự can thiệp của Nhà nước để có thể cải thiện hoạt động kinh tế.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Tuy nhiên, càng về sau cơ chế này càng tỏ ra không phù hợp và xuất hiện nhiều tiêu cực làm hạn chế mầm mống của sự phát triển, làm tăng thêm, bộc lộ những mâu thuẫn vốn có trong xã hội. Làm cho lòng tin của nhân dân vào Đảng bị giảm sút.
Để đi sâu nghiên cứu cơ chế thị trường ta phải tìm hiểu kỹ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Với các đặc trưng chủ yếu:
- Quản lý kinh tế băng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá quá đầy các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng mọi hệ thống chi tiêu pháp lệnh từ trên xuống.
- Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình.
- Coi thường quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức bao cấp qua giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách Nhà nước mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
Những đặc điểm trên dẫn đến không tránh khỏi bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian và kém năng động. Từ đó sinh ra một đội ngũ các cán bộ kém năng lực quản lý, không theo kịp nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách quan liêu, cửa quyền.
Cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển nền kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã được Đại hội VI của Đảng xác định và được Đại hội VII của Đảng khẳng định là “Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành toàn bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
ở mỗi nước điều kiện kinh tế, chính trị xã hội khác nhau do đó nền kinh tế thị trường cũng có những dạng cụ thể khác nhau. Vì vậy, không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này là bản sao của nền kinh tế thị trường nước khác. Một tiêu thức cơ bản để phân biệt một nền kinh tế thị trường giữa các nước là mục đích chính trị xã hội mà các Chính phủ lựa chọn, làm định hướng cho sự lựa chọn của nền kinh tế thực chứng. Khi nền kinh tế được điều khiển đến các mục tiêu mong muốn như: Công bằng xã hội và đạt hiệu quả tăng trưởng bền vững, trong sạch môi trường và môi sinh, xã hội văn minh, xã hội chủ nghĩa v.v.. Tức là nền kinh tế ấy đã nhận thức trên bình diện chuẩn tắc thì lúc đó ý nghĩa chính trị xã hội của nó mới được bộc lộ ra. Đồng thời, lúc đó các quan hệ cung cầu, giá cả sẽ được vận dụng để đạt mục tiêu kinh tế xã hội.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất như sau:
- Xã hội chủ nghĩa là định hướng chính trị - xã hội của một nền kinh tế xét từ góc độ kinh tế.
Từ đó ta thấy: Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng lý tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Ta phải loại trừ thành kiến: “Thị trường là chủ nghĩa tư bản”: “Kế hoạch là chủ nghĩa xã hội” và các quan điểm cùng loại.
b. Thị trường:
Như trên ta đã biết: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? cho ai? được quyết định qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế của các cá nhân các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường hay “bàn tay vô hình” (Adam Smith).
Vậy thị trường là gì? Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về thị trường. Ta có thể hiểu một cách cơ bản nhất thị trường là lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua và người bán gặp nhau, cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá. Nói đến thị trường là nói đến địa điểm nơi trao đổi hàng hoá. Vì vậy, thị trường có thể là những cái chợ, các cửa hàng, cửa hiệu sở giao dịch.... Nền kinh tế thị trường càng phát triển khái niệm thị trường ngày càng được mở rộng.
Nói đến thị trường là nói tới sự cạnh tranh của các chủ thể kinh tế để xác định giá cả hàng hoá. Không có sự cạnh tranh này thì không có thị trường. Vậy thị trường đồng nghĩa với tự do kinh tế, tự do trao đổi. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế là bình đẳng thuận mua vừa bán. Vì vậy có thể nói thị trường vừa là điều kiện vừa là môi trường cho kinh tế hàng hoá phát triển. Không có thị trường sản xuất và trao đổi hàng hoá không thể tiến hành được.
Căn cứ vào chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi có thể phân chia thành hai loại thị trường.
- Thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ, ở đó người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt như: Lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa... Hay còn gọi là thị trường đầu ra.
- Thị trường là các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua bán các yếu tố: Máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hầm mỏ, nhà máy, đất đai, sức lao động. Ngày này với sự phát triển mạnh mẽ của sự sản xuất hàng hoá đã xuất hiện thêm nhiều loại: Thị trường vốn, thị trường tài chính.... Những thị trường này bán các đầu vào của quá trình sản xuất .
2. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường.
a. Các qui luật của kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều các qui luật kinh tế hoạt động và phát huy tác dụng nhờ qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh và chu kỳ kinh doanh.
- Qui luật cung cầu:
Qui luật này được phát hiện đầu tiên vào năm 1776. Lý thuyết này được Marshall phát triển vào cuối thể kỷ 19 và được các nhà kinh tế hoàn thiện vào nửa đầu thế kỷ 20. Theo lý thuyết này giá cả của hàng hoá trên thị trường được xác định bởi giao điểm biểu đồ thị của sức cung và sức cầu không một ai có thể chi phối được giá cả (với giá định các nhà sản xuất tương đối nhỏ và sản xuất cùng một loại hàng hoá sức cạnh tranh hoàn hảo). Nếu người sản xuất tăng giá bán thì khách hàng sẽ bỏ họ và họ sẽ không bán được sản phẩm. Ngược lại nếu họ hạ thấp giá bán xuống dưới giá cả thị trường họ sẽ mất đi số lợi nhuận cung cầu miêu tả quá trình hình thành giá cả như sau: Số cung và số cầu của một loại hàng hoá được xem như hai lưỡi của cái kéo. Ta có thể nói rằng giá bán hàng hoá đó càng cao thì số lượng hàng của người tiêu dùng mua sẽ càng ít và ngược lại. Khi giá và số lượng hàng mà người sản xuất muốn cung ứng bằng số lượng hàng mà người tiêu dùng muốn mua và gọi đó là điểm c...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
T Tiểu luận Vai trò và hoạt động của trung tâm lưu ký chứng khoán . Những vấn đề còn tồn đọng Luận văn Kinh tế 1
D Tiểu luận Vai trò của probiotics, symbiotics Y dược 0
F Tiểu luận: Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo Tài liệu chưa phân loại 0
E Tiểu luận: Bình luận về vai trò của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc theo quy định của Hiến Chương và t Tài liệu chưa phân loại 0
N Tiểu luận: phân tích vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện cá Tài liệu chưa phân loại 0
T Tiểu luận: nâng cao vai trò của pháp luật thuế ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trườ Tài liệu chưa phân loại 0
N Tiểu luận:Hương ước của làng là gì? Nội dung cơ bản của Hương ước? Vai trò, ảnh hưởng của Hương ước Tài liệu chưa phân loại 0
B Tiểu luận: Vai trò, thực trạng của kinh tế tư bản tư nhân, đánh giá kinh tế tư bản tư nhân và một s Tài liệu chưa phân loại 0
T Tiểu luận: VAI TRÒ CỦA VÀNG VÀ SO SÁNH VỚI TIỀN ĐỒNG Tài liệu chưa phân loại 1
M Tiểu luận: Vai trò của gia đình trong việc nhận thức và thực hiện bình đẳng giới hiện nay ở Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top