ljnhkute162

New Member
Download Tiểu luận Cưới hỏi của người Việt miễn phí

MỤC LỤC
Trang
A. Mở đầu.1
B. Nội dung.1
I. Nghi lễ Việt Nam : Xưa.1
1. Tuổi đính hôn.1
2. Giạm hỏi.1
3. Sêu.2
4. Lễ hỏi.2
5. Cưới.3
6. Rước dâu.3
7. Lại mặt.4
II. Hôn lễ ở Việt Nan:Nay.Sự kết hợp truyền thống và hiện đại.4
III. Nhận xét hôn lễ ở Việt Nam ngày nay.5
1. Giữ lại những nét đẹp, hay.5
2. Hôn lễ ở Việt Nam: Tình trạng thương mại hoá.6
IV.Làm thế nào tổ chức lễ cưới lành mạnh.8
C. Tổng kết.9

MỞ ĐẦU

Hôn nhân là việc quan trọng của một đời người.Ông bà ta đã dạy rằng : trai khôn dựng vợ,gái lớn gả chồng,điều này cho thấy việc xây dựng hạnh phúc gia đình đã trở thành một quy luật tất yếu khi chúng ta bước vào tuổi trưởng thành.Ở đời, người ta hạnh phúc nhất là trải qua những khoảnh khắc trong ngày hôn lễ.
Vậy, bạn biết gì về nghi lễ hôn nhân ở việt nam: Xưa và nay? Nó được tổ chức như thế nào?
Người xưa quan niệm cưới hỏi là một trong ba việc lớn của đời người : tậu trâu,cưới vợ,làm nhà,cho nên tập tục cưới xin cũng được tổ chức với rất nhiều nghi lễ khá rình ràng, tốn kém, phải tuân thủ theo nhiều lễ giáo phong kiến rất khắt khe. Ngày nay, nhiều đám cưới tổ chức theo nếp sống mới, giúp cho đôi vợ chồng trẻ và hai họ không phải vất vả, không tốn kém tiền bạc mà còn đem cả niềm vui, hạnh phúc thật sự cho đôi vợ chồng mới. Nhưng bên cạnh đó, có những điều mà chúng ta cần quan tâm tới nghi lễ hôn nhân Việt Nam ngày nay. Đó là việc lợi dụng chức quyền, tổ chức đám cưới cho con, em để thu lợi cho bản thân. Vậy làm thế nào có một đám cưới lành mạnh? Câu hỏi cần có câu trả lời.Chính vì sự quan trọng cũng như một điều gì đó rất thiêng liêng cho nên em chọn đề tài : “ Cưới hỏi của người Việt ” làm đề tài nghiên cứu . nội dung chính của đề tài bao gồm :





NỘI DUNG

I. Hôn lễ ở Việt Nam : Xưa
Ngày xưa, gia đình nào mỗi lần dựng vợ gả chồng cho con cái của mình là một lần phải trải qua những thử thách trước những nghi thức và lễ tục rườm rà. Chính vì vậy, trước khi tổ chức lễ cưới, người ta luôn phải có sự học hỏi, phải bàn bạc trước với những người có kinh nghiệm để làm sao có thể tổ chức được một đám cưới thật hoàn chỉnh với đầy đủ nghi lễ và tránh được những thiếu sót trong quá trình hôn lễ diễn ra.
1. Tuổi đính hôn:
Người Việt Nam xưa có quan niệm rất coi trọng vấn đề tuổi tác khi làm bất cứ việc gì. Tuổi tác có hợp,có đẹp thì mọi chuyện mới tốt đẹp. Và đặc biệt trong chuyện cưới xin-một việc quan trọng của đời người thì việc xem tuổi đính hôn lại càng trở nên cần thiết. Ngày xưa, con trai con gái thường thường độ mười lăm, mười sáu trở lên là đã có thể lấy vợ lấy chồng được rồi. Và hai mươi ba gọi là cưới muộn. Không chỉ có thế, người ta còn cưới cho con cái của mình từ năm mười hai, mười ba tuổi, và có nhà ước hôn với nhau từ trong thai .
Tục vợ chồng lấy nhau cứ hơn kém nhau một hai tuổi là vừa đôi....Khi đã xác định được tuổi đính hôn rồi, người ta bắt đầu giạm hỏi cho con mình.
2.Giạm hỏi:
Đầu tiên người ta phải chọn chỗ nào môn đăng hộ đối, xem đôi tuổi có xung khắc với nhau không? Nếu không xung khắc mới mượn mối lái. Và người làm mối lái nói với cha mẹ người con gái bằng lòng gả rồi, nhà trai mới đem cau đem chè đến giạm. Vậy là khi có sự đồng ý của người con gái, nhà trai mới mang sính lễ đến hỏi cưới. Đây là lễ cho con trai và người con gái được công khai gặp mặt và tìm hiểu nhau. Trong lễ này, người ta chỉ đem một chùm cau và vài lạng chè đến nhà cô gái. Trong quá trình trò chuyện, nhà gái thường cho cô gái bưng cơi trầu, nước mời khách để tạo cơ hội cho chàng trai và cô gái gặp nhau nên lễ này còn được người ta gọi là lễ xem mặt.
Giạm hỏi chỉ là bước đầu của nghi lễ hôn nhân. Sau khi đã nhận lễ giạm hỏi, nếu có bất kì thay đổi nào thì việc hôn nhân có thể thay đổi.
3. Sêu:
Sau khi giạm hỏi, thì người ta mới sêu. Vậy sêu là gì? Sêu là đồ cưới mà nhà trai mang đến nhà gái. Đồ sêu thì tuỳ theo mùa, mùa nào thức ấy, như mùa nhãn thì người ta sêu nhãn, mùa cam thì sêu cam....Và đồ sêu này, nhà gái sẽ lấy một nửa, còn một nửa trả laị nhà trai. Đồ trả lại cho nhà tra này, người ta gọi là đồ lại mặt. Đồ sêu còn thể hiện mùa màng ở vùng đó, và cũng thể hiện sự trao đổi lời Thank của nhà trai đối với nhà gái và ngược lại đó là tấm lòng của nhà gái đối với nhà trai đã nhận cưới con nhà mình.
4. Lễ hỏi:
Nhà gái có con gả chồng, theo truyền thống là phải có miếng trầu báo tin cho họ hàng, làng xóm, nội ngoại biết. Trong ngày lễ này, nhà trai thường mang lễ vật như cau tươi, trà, rượu, thuốc lá, bánh, thiếp báo hỷ, nữ trang cho cô dâu tương lai. Ngoài những thứ đó ra, nhà trai còn mang trầu cau, đèn cầy ( nến đỏ)...và cùng một số tiền mặt. Số tiền này, người ta gọi là tiền đồng, “ có lẽ vì ngày xưa, người ta xài tiền bằng đồng, và phải bằng đồng chớ không thể bằng thau, bằng bạc hay bằng kẽm”(1). Qua lễ ăn hỏi, chúng ta thấy, người xưa rất coi trọng nghi lễ trong việc chuẩn bị rước dâu về nhà. Không chỉ có vậy, qua nghi lễ ăn hỏi, chúng ta còn thấy được phong tục tập quán của vùng đó. Chẳng hạn như, tiền đồng, “ở miền Trung nước ta, điển hình là tỉnh Quảng Ngãi, người ta gọi tiền này là Tiền nát, tức là tiền không thể để nguyên vẹn đủ số được, vì phải dùng tiêu xài mua sắm thì phải tan nát ra”(2). Hay là có những nơi, người ta gọi thẳng số tiền này là tiền chợ , “tức là tiền đưa cho họ nhà gái đi chợ mua thực phẩm về nấu nướng đãi đằng thân quyến thuộc và họ nhà trai khi sang cử hành lễ cưới và mua sắm thêm những vật dụng cần thiết cho cô dâu mà hộ đằng trai không thể hay không biết làm sao mua sắm trước được”(3).
Người nhà chú rể sẽ mang lễ vật tới nhà gái. Gia trưởng nhà gái cho đặt lễ lên bàn thắp đèn hương và cáo với tổ tiên, bốn lạy rồi quỳ khấn
(1) (2) (3) Phạm Côn Sơn – Gia lễ xưa và nay – NXB Thanh Niên – 1999- trang 37
bài khấn ngày lễ ăn hỏi, khấn xong thêm bốn lạy một vái. Chàng trai và cô gái cùng vào lạy. Nhà gái lưu lại một phần lễ để nhà trai mang về gọi là “lại quả”.
5. Cưới:
Sau đám hỏi vài ngày, cô dâu phải qua nhà trai đáp lễ bằng cách mời trầu cau, quà bánh cho bà con hàng xóm để họ biết sắp tới mình sẽ về làm dâu gia đình này. Còn chú rể phải thường xuyên đi lại thăm hỏi gia đình nhà cô gái khi có người ốm đau, giúp công giúp sức khi nhà có việc...giống như nghĩa vụ của một người trong gia đình. Sau đó, nhà trai xem ngày để tổ chức lễ cưới, để mời họ hàng bà con hàng xóm tới dự lễ cưới chúc mừng. Nhà gái cũng vậy. Thường thì nhà trai là nhà quyết định ngày cưới.
6. Rước dâu:
Và ngày rước cô dâu mời về nhà cũng được tổ chức sau hôm đó. Nhưng ngày này thì tổ chức tuỳ từng nơi, có nơi sau một ngày, sau hai ngày, thậm chí có những nơi sau một tháng. Đầu tiên, nhà trai cũng phải xem giờ nào đi đón cô dâu. Nhưng chuyện này, nhà trai phải xem trước mấy ngày. Giờ đi đón cô dâu cũng phải là giờ tốt lành.
Giờ lành đã đến, nhà trai bắt đầu lên đường đến nhà cô dâu. “Khi cổng nhà mở ra rồi, họ nhà trai bước vào cùng với tiếng pháo do họ nhà trai đốt, hoà lẫn cùng tiếng pháo của họ nhà gái đón mừng họ nhà trai”(4). Có tiếng pháo nổ ra là báo hiệu nhà trai đã đến cổng nhà gái rồi. Đến nơi, họ nhà gái mời nhà trai vào nhà.
Nhà trai cho đặt đồ lễ lên giường thờ (ngày xưa, người ta thường thờ cúng trên gường, không như ngày nay cúng trên bàn hay trên tủ). Sau khi đặt đồ lễ xuống, nhà gái kiểm tra lại đồ thách cưới. Đồ lễ đủ, nhà gái cho thắp hương để chú rể và cô dâu cúi gia tiên. Việc thắp hương trong ngày cưới, không phải ai cũng có thể thắp được. Nén hương là phải do bố, anh trai hay em trai của cô dâu thắp. Nhà trai lại phải tặng một món tiền, nếu người thắp hương là anh trai hay em trai của cô dâu. Món tiền đó người ta gọi là tiền thắp hương.
Tục lệ quả là phức tạp và đầy khó khăn đối với nhà trai. Nhưng qua những khó khăn này, chúng ta mới thấy được nhà trai không nề hà những khó khăn để đón cô dâu, và cũng chứng tỏ rằng sự thiết tha yêu thương vợ của chú rể.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:



Xem thêm
[Free] Phong tục cưới hỏi và xu hướng hôn nhân trong thời đại ngày nay
 
Top