ng_trang2000

New Member
Download Tiểu luận Động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức miễn phí



MỤC LỤC
Mở đầu
I. Một số quan niệm về kinh tế tri thức
1. Về tên gọi
2. Khái niệm
3. Đặc trưng của kinh tế tri thức
II. Động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức
1. Động lực của kinh tế tri thức theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WBI).
2. Động lực của kinh tế tri thức theo cách tiếp của GS.TS Hoàng Xuân Phương
3. Các nước đang phát triển có thể rút ra được gì?
III. Kết luận
MỤC LỤC
Mở đầu
I. Một số quan niệm về kinh tế tri thức
1. Về tên gọi
2. Khái niệm
3. Đặc trưng của kinh tế tri thức
II. Động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức
1. Động lực của kinh tế tri thức theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WBI).
2. Động lực của kinh tế tri thức theo cách tiếp của GS.TS Hoàng Xuân Phương
3. Các nước đang phát triển có thể rút ra được gì?
III. Kết luận
MỞ ĐẦU
Kinh tế tri thức - một sản phẩm mới cực kì quan trọng, có thể nói là hết sức cơ bản của thời đai thông tin.Theo nhận định của Francis Bacon: “Tri thức là sức mạnh”luôn đúng với mọi thời đại tuy nhiên, chưa bao giờ vai trò của tri thức lại nổi bật như hiện nay. Kinh tế mới là động lực quyết định nhất thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, là thời cơ và thách thức đối với vận mệnh của các quốc gia lớn nhỏ…Góp một phần rất quan trọng và tồn tại song song với nền kinh tế tri thức thì không thể không nói đến khoa học công nghệ hiện đại và đây cũng là con đường đi đến công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng IX đã khẳng định nhiệm vụ đẩy mạnh hiện đại hoá, hiện đại hoá nhằm phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp. Đó là nhiệm vụ hết sức nặng nề bởi lẽ xét toàn cục,nước ta chưa thoát khỏi tình trạng nước cùng kiệt và kém phát triển,trình độ phát triểnchung còn thấp kém, khoảng cách giữa nước ta và các nước không những chậm được thu hẹp mà còn có nguy cơ mở rộng. Hiện nay GDP bình quân đầu người của nước ta bằng khoảng 1/12 mức bình quân chung của thế giới, thuộc nhóm các nước cùng kiệt nhất thế giới. Trong điều kiện đó việc tìm ra con đường hợp lý, đưa ra những giải pháp thích ứng để đạt mục tiêu đã xác định có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Dự thảo báo cáo chính trị tại Đại hội IX đã xác định: “con đường công nghiệp hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với những nước đi trước, vừa có những bước đi tuần tự vừa có những bước đi nhảy vọt”. Vì vậy công nghiệp hoá - hiện đại là mục tiêu trước tiên và cần thiết để đưa nước ta ngày một giàu mạnh.
I. Một số quan niệm về kinh tế tri thức
1. Về tên gọi
Những năm gần đây trong nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế và trong nhiều văn bản chiến lược phát triển của các quốc gia, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế như:
“Kinh tế thông tin-information economy”, “kinh tế mạng – network economy”, “kinh tế số - digital economy”(nói lên vai trò quyết định của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế).
“Kinh tế học hỏi – learning economy” (nói lên động lực chủ yếu của nền kinh tế là sự học tập suốt đời của con người).
“ Kinh tế dựa vào tri thức – knowledge based economy”, “ kinh tế dẫn dắt bởi tri thức – knowledge driven economy”, “kinh tế tri thức – knowledge economy” ( nói lên vai trò quyết định của tri thức và công nghệ đối với phát triển kinh tế).
“ Kinh tế mới – new economy” ( là tên gọi chung, không xác định nội dung).
Trong số các tên gọi trên, kinh tế tri thức là tên gọi thường dùng nhất. Tổ chức OECD chính thức dùng từ năm 1996. Tên gọi này nói lên được nội dung cốt lõi của nền kinh tế mới, còn kinh tế thông tin, kinh tế số chỉ mới nói về công nghệ thông tin, mặc dù công nghệ thông tin là nội dung chủ yếu nhất nhưng không bao gồm được các yếu tố tri thức và công nghệ khác.
2. Khái niệm
Kinh tế tri thức là một khái niệm xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nó không có trong chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như trong các tài liệu triết học trước đó. Nhưng chỉ mới gần đây nó mới rộ lên, nhất là từ khi phát triển máy tính cá nhân, rồi Internet và xa lộ thông tin. Do đó đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về kinh tế tri thức:
Theo Giáo sư - Viện sĩ Đặng Hữu, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Kinh tế tri thức phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội, theo đó, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi rất nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động tri thức tăng lên vô cùng lớn. Những ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học, công nghệ là những ngành có tác động to lớn tới sự phát triển kinh tế của đất nước.
Năm 1996, OECD đưa ra định nghĩa: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống” .
Năm 2000, APEC cũng quan niệm: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.
Theo GS.TS Hoàng Xuân Phương thì có hai cách định nghĩa về nền kinh tế tri thức:
Thứ nhất, đó là nền kinh tế của các tri thức hay còn gọi là nền quản trị tri thức, theo đó những hiểu biết hay công nghệ kết tinh từ quá trình đầu tư và lao động trở thành những sản phẩm cụ thể, những mặt hàng có thể trao đổi, buôn bán, sang nhượng hay góp vốn trong các thị trường.
Thứ hai, đó là nền kinh tế dựa trên tri thức. Ở đây sự hiểu biết trở thành công cụ, một thứ nhà máy vô hình để sản xuất ra các thứ hàng hóa và tích thu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vai trò của sự hiểu biết (know-how) rất quan trọng bởi có tính cạnh tranh cao nhờ vào khả năng phi vật thể hóa (dematerialisation) trước ba sức ép lớn lên nền kinh tế hiện nay gồm tài nguyên cạn kiệt, dân số gia tăng và biến đổi khí hậu.
Định nghĩa thứ hai mỗi ngày mỗi được sử dụng nhiều hơn bởi chiều hướng chuyển đổi sang nền kinh tế mới là tất yếu và toàn cầu. Sự chuyển đổi này bắt đầu từ các nền kinh tế với hạ tầng gồm hai thành phần là tư bản vốn (capital) và sức lao động (labor) sang nền kinh tế được bổ sung hạ tầng thứ ba là hệ thống tri thức (knowledge) bao gồm các hiểu biết, công nghệ và kỹ năng.
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc nước ta đã có hay đã sẵn sàng cho tiến trình hội nhập kinh tế tri thức. Nếu xét theo định nghĩa thứ nhất thì chúng ta chưa có và rất khó có nền kinh tế tri thức bởi yếu kém cả ba cơ sở hạ tầng.
Nhưng xét theo định nghĩa thứ hai thì người Việt Nam với tư chất thông minh và sáng tạo đang xâm nhập nhanh chóng vào kinh tế tri thức và tạo ra lợi nhuận tăng thêm từ quá trình chuyển đổi đó.
Tuy có nhiều cách hiểu, quan niệm khác nhau song chúng ta có thể hiểu kinh tế tri thức một cách chung nhất là: “ Kinh tế tri thức là một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế sau kinh tế công nghiệp với vai trò của sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trong tăng trưởng kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Tri thức đã trở thành nhân tố hàng đầu của sản xuất, vượt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền vốn và lao động”.
3. Đặc trưng của kinh tế tri thức
Thứ nhất: vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng trưởng cao; của cải được tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp. Công nghệ cao, đặc biệt công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tổng sản phẩm tăng nhanh, nhưng tổng tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu… không tăng bao nhiêu, và số lượng lao động trong khu vực sản xuất hàng hóa ngày càng ít đi rõ rệt.
Thứ hai: sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Kinh tế phát triển là do sáng tạo, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trước đây, người ta coi trọng những công nghệ đã chín muồi, còn bây giờ là những công nghệ mới, bởi lẽ, cái chín muồi là cái sắp tiêu vong.
Thứ ba: công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mạng thông tin phủ khắp nước và trên thế giới liên kết các tổ chức, gia đình và quốc gia. Mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế.
Thứ tư: kinh tế tri thức là nền kinh tế học tập. Giáo dục và đào tạo được đầu tư cao hơn hẳn so với các dự án đầu tư về cơ sở vật chất (nhà máy, công trường…). Mọi người có điều kiện thuận lợi để học tập, không ngừng phát triển tri thức, nâng cao kỹ năng, phát triển sức sáng tạo, thúc đẩy đổi mới. Xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
Thứ năm: kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa. Quá trình phát triển kinh tế đi liền với quá trình kinh tế thị trường, phát triển thương mại thế giới và quá trình toàn cầu hóa, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Các sản phẩm và thị trường ngày càng có tính toàn cầu. Người ta thường gọi kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.
Thứ sáu: kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững, trong đó, các công nghệ sạch, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng, chất thải công nghiệp ít hơn, hạn chế ảnh hưởng làm ô nhiễm môi trường, bảo đảm được yêu cầu phát triển bền vững.
II. Động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức
1. Động lực của kinh tế tri thức theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WBI).
Ngân hàng Thế giới cho rằng các nền kinh tế tri thức cần dựa trên bốn trụ cột sau:

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

giangvu12a1

New Member
Re: [Free] Tiểu luận Động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức

cho mình xin link
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
M Tạo động lực cho người lao động để thúc đẩy phát triển sản xuất ở Công ty bánh kẹo Hải Châu Luận văn Kinh tế 0
A Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm nâng cao năng lực công nghệ sản xuất các chươ Kinh tế quốc tế 0
C thúc đẩy động lực làm việc của nhân viên thông qua hoạt động quản trị nhân lực tại Đại học Thăng Lon Luận văn Luật 0
C Việc sử dụng trò chơi ngôn ngữ nhằm tạo động lực thúc đẩy học sinh lớp 10 học viết tại trường Trung Ngoại ngữ 0
A Sử dụng hoạt động khoảng trống thông tin để thúc đẩy động lực học và sự tham gia của sinh viên trong Ngoại ngữ 0
N Tại sao lợi nhuận lại là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển đồng thời Tài liệu chưa phân loại 0
B Các biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của nước ta Tài liệu chưa phân loại 0
H Tiểu luận: Động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức Văn hóa, Xã hội 0
T Giải pháp nâng cao động lực thúc đẩy người lao động tại Công ty cổ phần lâm đặc sản xuất khẩu Quảng Luận văn Kinh tế 0
A Các biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top