Download Tiểu luận Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường miễn phí





Đảng và nhà nước ta đã xây dựng, chúng ta đang trong thời kỳ đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang tiến hành đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Như chúng ta đã biết sau chiến tranh - chúng ta đã giập khuôn mô hình của các nước XHCN một cách giáo điều làm cho nền kinh tế phát triển một cách trì trệ. Và rồi đến những năm 90 của thế kỷ 20 hệ thống chủ nghia xã hội ở Đông Âu bị sụp đổ. Nguyên nhân chính của các đảng là đã ngộ nhận dẫn đến sai lầm trong lĩnh vực chính trị, đã lệch khỏi những nguyên tắc quan trọng của chủ nghĩa Mác -Lê nin. Suy cho cùng đã vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phù hợp vơi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Bởi thế để tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã hội Đảng và và Nhà nứơc đã xác định yếu tố nền kinh tế là phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Đến đây chúng ta phải đặt câu hỏi: thế thì cơ chế thị trường của chúng ta có giống cơ chế thị trường của của nghĩa tư bản hay không? phải chăng chúng ta đang chuyển dần sang sản xuất tư bản chủ nghĩa? Điều này có thể lý giải ở bài trả lời phỏng vấn của đồng chí Lê Khả Phiêu tổng bí thư trung ương Đảng "Chúng tôi chỉ học hỏi những mặt tốt của chủ nghĩa tư bản đã thực hiện trong quá trình quản lý còn những mặt xấu của nó thì chúng tôi loại bỏ" vả lại Lênin cũng đã từng nói "về kinh nghiệm quản lý thì chủ nghĩa xã hội phải cắp cặp đi học chủ nghĩa tư bản



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ng hoá.
1.2. Học thuyết giá trị thặng dư (m) và lợi nhuận (P) của C.Mác
1.2.1. Học thuyết giá trị thặng dư:
Sự tạo ra giá trị thặng dư (m): C. Mác là người đầu tiên đưa ra học thuyết m một cách rõ ràng, sâu sắc, khoa học với môn kinh tế chính trị học. m là phần giá trị mà người công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Để thấy rõ điều đó ta đưa ra bài toán.
Giả định để sản xuất 10 kg sợi cần 10kg bông, giá trị 10 kg bông là 10.000đ. Để biến số bông thành sợi, 1người công nhân phải lao động trong 6h và hao mòn máy móc là 2.000đ, giá trị lao động 1 ngày của công nhân là 6.000đ, trong 1h công nhân tạo ra giá trị là 1000đ. Cuối cùng ta giả định toàn bộ bông đã chuyển thành sợ. Nếu người công nhân làm việc trong 6h thì không tạo ra được thặng dư. Trên thực tế nhà tư bản bắt công nhân phải làm việc hơn 6h, giả sử là 9h
Tư bản ứng trước
Tiền mua bông 15000đ
Hao mòn máy móc 3000đ
Tiền mua sức lao động 6000đ
24000đ
Giá trị của SP (15kg)
Giá trị bông chuyển thành sợi 15000đ
Giá trị máy móc chuyển vào sợi 3000đ
Giá trị do công nhân tạo ra 1000x9= 9000đ
27000đ
Vậy khi bán sản phẩm nhà tư bản sẽ thu được: 2700đ - 24000đ = 3000đ.
Số tiền này gọi là lợi nhuận, ở đây C.Mác đã vạch trần bộ mặt bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đã chứng minh thặng dư là do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không và thời gian lao động của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không và thời gian lao động của công nhân càng nhiều thì m tạo ra càng cao. Nếu như công nhân không tạo ra m thì nhà tư bản không được gì vì vậy nhà tư bản không muốn mở rộng sản xuất làm cho nền kinh tế không phát triển và ngược lại công nhân tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư thì nhà tư bản tích cực mở rộng sản xuất. Ngoài ra C.Mác còn đưa ra phạm trù thặng dư tương đối và m siêu ngạch (thặng dư tương đối dựa trên nâng cao ngân sách lao động tương đối còn thặng dư siêu ngạch dựa trên nâng cao ngân sách lao động cá biệt.
1.2.2. Lợi nhuận (P)
Cơ sở hình thành và lợi nhuận: Trong quá trình sản xuất giữa giá trị hình thànhvà chi phí sản xuất TBCM luôn luôn có sự chênh lệch, cho nên tư bản khi bán hàng hoá, nhà tư bản không những bù đắp đủ số đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời nganh bằng, với m. Số tiền này được gọi là 1... Vậy giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của tư bản toàn bộ tư bản ứng trước, xẽ mang hình thái chuyển hoá thành lợi nhuận.
gt=c+v+m= k+m
= k+P.
Tuy nhiên giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư không phải là hoàn toàn đồng nhất, giữa chúng có sự khác nhau.
Về mặt lượng: Nếu hàng bán đúng giá trị thì m=P. giữa m và P giống nhau đó là có chung nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân là thuê.
Về mặt chất: giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ tư bản lưu động, còn lợi nhuận được xem là toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó lợi nhuận đã che dấu quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản, che đậy nguồn gốc thật của nó. Điều đó thể hiện:
Một là:Sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau giữa tư bản cố định và tư bản lưu động, nên lợi nhuận sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận tư bản lưu động thay thế bằng sức lao động, bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.
Hai là: Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá (chi phí thực tế) là đã có lãi rồi. Chính sự không nhất trí về lượng giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư đã che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Tỉ suất lợi nhuận: Nhà tư bản không thể cam chịu với việc bỏ ra một khoản tư bản lớn mà lại thu được lợi nhuận thấp. Trên thực tế, nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm nhiều hơn đến tỉ suất lợi nhuận. Tỉ suất lợi nhuận là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
P' = . 100% = . 100%
Tỉ suất lợi nhuận cho biết nhà tư bản đầu tư vào đâu là có lợi , cho biết "đứa con đẻ của tư bản ứng trước" lớn hay không, tỉ suất lợi nhuận chỉ rõ mức độ lời lãi của việc đầu tư tư bản. Mức lợi nhuận cao thì lợi nhuận cao và tỉ suất (lợi nhuận cao. Do đó nó là động lực của nền sản xuất tư bản, là yếu tố của sự cạnh tranh, là sự thèm khát vô hạn của nhà tư bản.
Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân:
Chúng ta đã biết rằng, trong các đơn vị sản xuất khác nhau do điều kiện sản xuất (điều kiện kỹ thuật, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề tư nhân...) khác nhau, cho nên hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá đều phải bán theo một giá trị thống nhất, bán theo giá trị thị trường. Do đó lợi nhuận thu được đem lại cũng khác nhau nhưng thực ra trong quá trình sản xuất, các nhà tư bản không dễ đứng nhìn các nhà tư bản khác thu được lợi nhuận cao hơn mình, mà họ sẽ di chuyển tư bản của mình vào các ngành khác để tìm kiếm lợi nhuận và vô tình các nhà tư bản đã cạnh tranh nhau để giành giật nhau phần lợi nhuận. Quá trình cạnh tranhđó đã làm cho tỉ suất lợi nhuận được chia đều (bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận), và giá trị hàng hoá đã chuyển hoá thành giá trị sản xuất.
Như chúng ta đã biết, do các xí nghiệp trong nội bộ từng ngành, cũng như các ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản không giống nhau, cho nên để thu được nhiều lợi nhuận thì các nhà tư bản phải chọn những ngành nào có tỉ suất lợi nhuận cao để đầu tư vốn.
Giả sử có 3 nhà tư bản ở 3 ngành sản xuất khác nhau, tư bản ở mỗi ngành đều bằng 100 tỉ suất giá trị thặng dư đều là 100%. Tốc độ chu chuyển ở các ngành đều như nhau. Tư bản ứng trước đều chuyển hết giá trị vào sản xuất. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản ở từng ngành khác nhau, nên tỉ suất lợi nhuận khác nhau nên lợi nhuận thu được cũng khác nhau. Nhà tư bản không thể bằng lòng, đứng yên những ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp. Trong trường hợp này các nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản của mình sang ngành da, làm cho sản xuất của ngành da nhiều lên, do đó giá sản xuất của ngành da sẽ hạ xuống và tỉ suất lợi nhuận của ngành này cũng hạ xuống. Ngược lại, sản xuất của ngành cơ khí sẽ giảm đi và giá nên cao hơn giá trị,
Ngành
Chi phí sản xuất
Khối lượng (m)
P'%
Cơ khí
80c + 20v
20
20
Dệt
70c + 30v
30
30
Da
60c + 40v
40
40
và do đó tỉ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Như vậy do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỉ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Kết quả đã hình thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân.
Vậy tỉ suất lợi nhuận bình quân là tỉ suất theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa:
P': Tỉ suất lợi nhuận bình quâ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top