boy_tu_lap1987

New Member

Download Đề án Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế thị trường thời kỳ quá độ ở nước ta miễn phí





Đối với tư bản lưu động, việc tăng tốc độ chu chuyển hay rút ngắn thời gian chu chuyển sẽ cho phép tiết kiệm được tư bản ứng trước khi quy mô sản xuất như cũ hay có thể mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm. thí dụ, một tư bản có thời gian chu chuyển 9 tuần gồm 5 tuần sản xuất và 4 tuần lưu thông. Quy mô sản xuất đòi hỏi một lượng tư bản cho 5 tuần sản xuất là 100 x 5 =500. Nhưng, sau đó sản phẩm làm ra phải qua 4 tuần lưu thông. Do vậy, để sản xuất liên tục cần một lượng tư bản để lưu động khác cho 4 tuần này là 100 x 4 = 400, tổng cọng là 900. Nếu do những nguyên nhân nào đó, thời gian chu chuyển rút ngắn lại còn 8 tuần (rút ngắn 1 tuần sản xuất hay 1 tuần lưu thông) với quy mô sản xuất không đổi thì tư bản lưu động cần thiết cho sản xuất liên tục chỉ là 100 x 8 =800, chứ không phải là 900, tiết kiệm dược 100 tư bản ứng trước. Giả dụ, tư bản lưu động sử dụng vẫn là 900 thì quy mô sản xuất sẽ được mở rộng, tư bản lưu động sử dụng một tuần sẽ là 900:8 = 112,5 chứ không phải là 100, mà không cần có tư bản phụ thêm.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

khác, tư bản cũng chỉ có thể tuần hoàn một cách bình thường, nếu như tư bản của mỗi nhà tư bản công nghiệp, trong cùng một lúc, đều tồn tại dưới ba hình thức: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá. Trong khi một bộ phận là tư bản tiền tệ đang biến thành tư bản sản xuất, thì một bộ phận khác là tư bản sản xuất đang biến thành tư bản hàng hoá, và một bộ phận thứ ba là tư bản hàng hoá thì lại biến thành tư bản tiền tệ.Không những từng tư bản cá biệt đều như thế, mà tất cả các tư bản trong xã hội cũng như thế. Các tư bản không ngừng vận động, không ngừng trút bỏ hình thức này đẻ mang hình thức khác, thông qua sự vận đọng đó mà lớn lên. Không thể quan niệm tư bản như một vật tĩnh.
Trong sự vận động liên tục của chủ nghĩa tư bản mỗi hình thái của tư bản đều có thể là điểm mở đầu và điểm kết thúc của tuần hoàn tạo nên các hình thái tuần hoàn khác nhau của tư bản.
2- Chu chuyển tư bản:
2.1 Chu chuyển của tư bản.Thời gian chu chuyển:
Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lặp đi lặp lại, chứ không phải là một quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuỷên tư bản.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất, hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản cũng dưới hình thức như thế, nhưng có thêm giá trị thặng dư.Thời gian chu chuyển của tư bản là thước đo thời hạn đổi mới, thời hạn lắp lại quá trình tăng thêm giá trị của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản bao gồm quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng do thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại.
Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất.Thời gian sản xuất lại bao gồm thời gian lao động và thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian sản xuất=thời gian lao động + thời gian gián đoạn lao động + thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian hữu ích nhất, vì nó tạo ra giá trị cho sản phẩm.
Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động, dưới dạng bán thành phẩm nẳm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không có sự tác động của lao động mà chịu sự tác động của thời gian như thời gian để cây lúa tự lớn lên, ...Thời gian gián đoạn lao động có thể xen kẽ với thời gian lao động hay tách ra thành một thời kỳ riêng biệt, nó có thể dài ngắn khác nhau tuỳ từng trường hợp vào các ngành sản xuất, các sản phẩm chế tạo và phụ thuộc vào công nghệ sản xuất.
Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về, sẵn sàng tham gia quá trình sản xuất,nhưng chưa thực sự được sử dụng vào quá trình sản xuất còn ở dạng dự trữ. Sự dự trữ đó là điều kiện cho quá trình sản xuất liên tục. Quy mô dự trữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm của các ngành, tình hình của thị trường và năng lực tổ chức, quản lý sản xuất...
Cả thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo ra giá trị cho sản phẩm. Sự tồn tại của các thời gian này là không tránh khỏi, nhưng thời gian của chúng càng dài, hay sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động càng lớn thì hiệu quả của tư bản càng thấp. Rút ngắn thời gian này là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả của tư bản.
Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời gian lưu thông gồm thời gian mua và thời gian bán, kể cả thời gian vận chuyển.
Thời gian lưu thông = thời gian mua + thời gian bán.
Thời gian lưu thông phụ thuộc vao nhiều yếu tố như :
- Tình hình thị trường, quan hệ cung-cầu và giá cả trên thị trường;
- Khoảng cách tới thị trường;
- Trình độ phát triển của giao thông vận tải...
Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, nhìn chung, không tạo ra giá trị cho sản phẩm và giá trị thặng dư cho tư bản.Tuy nhiên, sự tồn tại của nó là tất yếu và có vai trò quan trọng. Vì đó là đầu vào và đầu ra của sản xuất. Cung cấp các điều kiện cho sản xuất và thực hiện sản phẩm do sản xuất tạo ra. Rút ngắn thời gian lưu thông làm cho tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông giảm xuống, tăng được lượng tư bản đầu tư cho sản xuất. Rút ngắn thời gian lưu thông cũng làm rút ngắn thời gian chu chuyển, làm cho quá trình sản xuất lặp lại nhanh hơn, tạo được nhiều giá trị và giá trị thặng dư hơn, làm tăng hiệu quả của tư bản.
Do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như vây, nên thời gian chu chuyển của các tư bản khác nhau(trong cùng một ngành và ở các ngành khác nhau) là rất khác nhau. Để so sánh, cần tính tốc độ chu chuyển của tư bản bằng số vòng chu chuyển thực hiện được trong một khoảng thơì gian nhất định, chẳng hạn trong một năm.
Ví dụ, tư bản thứ nhất có thời gian chu chuyển 6 tháng và tư bản thứ 2 có thời gian chu chuyển 8 tháng thì số vòng chu chuyển (n) trong năm của hai tư bản đó là
12 tháng
8 tháng
=1,5 vòng/ năm
n1=
12 tháng
6 tháng
= 2 vòng/ năm
n1=
2.2. Tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận với thời gian chu chuyển khác nhau, do đó ảnh hưởng tới thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản . Căn cứ vào sự khác nhau trong cách chu chuyển về mặt giá trị của các bộ phận đó, tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản được sử dụng toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần vào sản phẩm. Đặc điểm của tư bản cố định là về hiện vật, nó luôn luôn bị cố định trong sản xuất, chỉ có giá trị của nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm, hơn nữa nó cũng chỉ lưu thông từng phần, còn một phần vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn thời gian một vòng tuần hoàn.
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản, khi tham gia vào quá trình sản xuất, nó chuyển toàn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản
bất biến dưới hình thái nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ...Bộ phận tư bản khả biến, xét về cách chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến lưu động nói trên, nên cũng được xếp vào tư bản lưu động.
Như vậy, xét theo nguồng gốc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư thì tư bản được chia thành tư bản bất biến(c) và tư bản khả biến(v), còn khi xem xét về cách chu chuyển giá trị thì tư bản được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Căn cứ để phân chia không phải do đặc tính tự nhiên của chúng (lâu bền hay không lâu bền, có di chuyển hay không di chuyển được ...) mà có sự khác nhau về cách chuyển giá trị, được quyêt định bởi chức năng của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất.
Trong thực tế, sự phân biệt giữa t
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top