tracy_terry

New Member

Download Tiểu luận Xử lý tình huống Công ty TNHH Thương mại Việt Thắng khiếu nại Chi cục Hải quan AH áp mã thuế nhập khẩu Gạch lát nền bằng bột đá ép miễn phí





MỤC LỤC
Trang
 
Lời nói đầu . . 2
A TÌNH HUỐNG . . . 4
I. Hoàn cảnh ra đời . . 4
II. Diễn biến tình huống . . .4
B, PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG . . 7
I. Xác định mục tiêu xử lý tình huống . 7
II. Cơ sở lý luận . . 9
III. Phân tích tình huống 10
IV. Phương án giải quyết . . . 12
C. KIẾN NGHỊ . . . 19
Kết luận . 22
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ết quả thử nghiệm
TT
Tên chỉ tiêu
Đơn vị tính
Phương pháp
Kết luận
1
Kích thước
+ Chiều dài
mm
TCVN 6074 : 1995
600
+ Chiều rộng
mm
600
+ Chiều dày
mm
9,4
2
Độ hút nước
%
TCVN6355-3: 1995
0,078
3
Độ cứng
Mohs
TCVN 6415 : 1998
7
4
Độ bền hóa với dung dịch axit HCl 5%
TCVN 6415 : 1998
Không bị phá hủy
5
Khả năng chịu nhiệt nung ở to = 1000oC
Không bị biến dạng
6
Thành phần hóa
+ SiO2
%
65,92
+ Al2O3
%
20,87
7
Độ mài mòn
g/cm2
TCVN 6065 : 1995
0,30
å Sau khi tiến hành thử nghiệm các chỉ tiêu kỹ thuật của mẫu gạch nói trên, Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật xin thông báo như sau :
Qua quan sát bằng trực quan cho thấy mẫu gạch được kiểm tra là loại đá ốp lát nhân tạo qua ép tạo hình và qua nung.
Kết quả các chỉ tiêu đã kiểm tra cho thấy mẫu được nung kết khối rắn chắc và không phải là đá bột ép chưa qua nung.
Kết quả phân tích thành phần khoáng cho thấy thành phần chủ yếu của gạch là SiO2 và khoáng ( 3Al2O3.SiO2 ) đã hình thành trong quá trình nung tạo ra liên kết bền vững và có độ cứng bề mặt cũng như độ bền cơ học cao.
± Kết luận : Mẫu gạch đá lát nền đã được kiểm tra có kích thước (600x600)mm không phải là đá Granit tự nhiên. Đây là mẫu đá Granit nhân tạo. Thuộc nhóm mã hàng 6810.19.10 theo Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ban hành ngày 25 tháng 7 năm 2003.
Đơn khiếu nại cùng các chứng thư trên đã được Lãnh đạo Bộ Tài chính và Lãnh đạo Tổng cục Hải quan chuyển cho Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc kiểm tra, nghiên cứu, báo cáo và đề xuất Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục Hải quan hướng giải quyết.
B. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
I/ Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Hiện nay, có 3 loại hình hoạt động cơ bản liên quan trực tiếp đến việc phân tích xác định bản chất hàng hóa XNK, đó là hoạt động giám định thương mại, hoạt động kiểm tra chất lượng nhà nước đối với hàng hóa NK, hoạt động phân tích phân loại hàng hóa của Hải quan. Ở đây có một số điểm đáng lưu ý như sau :
Các tổ chức giám định thương mại chủ yếu phục vụ cho mục đích thương mại, các đơn vị sự nghiệp kỹ thuật chủ yếu phục vụ cho mục đích quản lý chuyên ngành của các Bộ, ngành. Các tổ chức giám định, đơn vị kiểm tra hàng hóa chuyên ngành đều không có chức năng phân loại áp mã số hàng hóa XK, NK theo Danh mục HS và Biểu thuế XK, NK.
Một số chứng thư giám định không đáp ứng được yêu cầu phục vụ việc phân loại, áp mã số hàng hóa của cơ quan hải quan, thậm chí có cả những chứng thư không bảo đảm tính khách quan, trung thực hay hàng hóa bị từ chối giám định với nhiều lý do khác nhau.Chức năng của hoạt động phân tích phân loại của Hải quan là xác định tên và mã số hàng hóa theo hệ thống HS và Biểu thuế trên cơ sở kết quả phân tích hàng hóa trong phòng thí nghiệm hải quan.
Tuy nhiên, trước kia các cơ quan Hải quan thường căn cứ vào chứng thư giám định về thành phần, bản chất, chức năng, thông số kỹ thuật của các cơ quan bên ngoài để tiến hành phân loại áp mã hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu. Hiện nay, tuy đã có các Trung tâm phân tích phân loại hải quan nhưng trong thực tế các Trung tâm phân tích phân loại cũng không thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu giám định phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của ngành Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cho nên trong Luật Hải quan sửa tại khoản 4 điều 27 quy định : Lấy mẫu hàng hóa với sự có mặt của người khai hải quan để cơ quan hải quan phân tích hay trưng cầu giám định phục vụ kiểm tra hàng hóa; sử dụng kết quả phân tích, kết quả giám định để xác định mã số và chất lượng hàng hóa. Như vậy theo Luật Hải quan cơ quan Hải quan các địa phương sẽ là người quyết định kết quả phân loại áp mã đối với hàng hóa XNK và tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình sau khi tham khảo kết quả giám định.
Chính vì vậy, những bất đồng trong hoạt động phân loại áp mã đối với hàng xuất nhập khẩu giữa cơ quan Hải quan với các doanh nghiệp hay giữa các cơ quan hải quan trong ngành là lẽ đương nhiên, đây cung là nguồn gốc phát sinh những vụ việc khiếu kiện về phân loại áp mã hàng hóa giữa doanh nghiệp và các cơ quan Hải quan.
Đối với vụ việc Gạch lát nền bằng bột đá ép trên do có các kết luận khác nhau về mã số thuế giữa các cơ quan giám định cho nên chúng ta phải xem xét đánh giá một cách khách quan trên cơ sở các căn cứ khoa học và các văn bản qui phạm pháp luật hiện hành đảm bảo tính công khai, công bằng, đúng pháp luật.
II. Cơ sở lý luận
Thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế khác nhau, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, Việt nam đã có quan hệ thương mại với nhiều nước trên Thế giới thông qua các Hiệp định song phương, đa phương. Có thể nói, hiện nay tại các cửa khẩu hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam từ nhiều nước, nhiều vùng khác nhau trên Thế giới, rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, đa chức năng sử dụng trên một sản phẩm. Vì vậy, phân tích phân loại hàng hóa nhập khẩu trở nên phức tạp, khó khăn hơn nếu việc kiểm tra thực tế hàng hóa chỉ bằng phương pháp trực quan. Là lực lượng “Gác cửa nền kinh tế” với nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải, phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ( Điều 11 – Luật Hải quan ) đòi hỏi nghành Hải quan phải lỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực, hiệu quả về phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để thu đúng, thu đủ các loại thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, chống gian lận thương mại qua áp mã; ngăn chặn, phát hiện kịp thời hàng hóa cấm nhập khẩu, đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Từ yêu cầu thực tiện khách quan, chủ quan, công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu đã được coi là công cụ nghiệp vụ quan trọng, có tính đột phá trong xây dựng lực lượng Hải quan hiện đại, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của ngành và góp phần thực hiện những cam kết mà Việt Nam đã ký kết về Công ước HS của Tổ chức Hải quan Thế giới ( WCO ). Chính vì vậy, Quốc hội Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan thực sự quan tâm, tạo điều kiện cho hoạt động phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu với những hệ thống quy định pháp luật có tính pháp lý cao như :
Điều 27, 72 Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/06/2001.
Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001.
Nghị định 06 /2003/NĐ-CP ngày 22/12//01/2003 của Chính phủ.
Thông tư số 85/2003/TT-BTC ngày 29/08/2003 của Bộ Tài chính.
Quyết định số 32/2003/QĐ-BTC ngày 17/03/2003 của Bộ Tài chính quy địn về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Trung tâm PTPL hàng hóa XNK.
Quyết định số 710/2003/QĐ-TCHQ/PTPL ngày 03/06/2003 ban hành quy chế PTPL hàng hóa XNK trong ngành Hải quan.
Quyết định số 1711/2003/QĐ-TCHQ ngày 18/12/2003 ban hành quy chế phối hợp giữa các đơn vị trong ng
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top