keo_ngoc

New Member
Download Tiểu luận Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn, nguyên nhân và biện pháp khắc phục

Download Tiểu luận Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn, nguyên nhân và biện pháp khắc phục miễn phí





Năm 1997 giá cả thị trường trong nước ở mức khá ổn định, chỉ số lạm phát ở mức 103,6% tăng 3,6% so với cuối năm 1996. Đây là mức lạm phát thấp nhất ở nước ta cho đến trước năm 1997. Tuy nhiên, cùng với những thành công trong việc kiềm chế lạm phát đã xuất hiện hiện tượng thiểu phát trong những tháng đầu năm. Có thể nêu ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:
- áp dụng một số kinh nghiệm kiềm chế lạm phát trong một số năm trước
- sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì ở mức độ cao
- hàng hoá trên thị trường đủ đáp ứng mọi nhu cầu của tầng lớp nhân dân
- tốc độ tăng của xuất khẩu có xu hướng chậm lại là một trong những yếu tố làm giảm giá trong nước
- thực thi chính sách tài chính tiền tệ chặt chẽ
- giá cả thị trường thế giới biến động theo chiều hướng giảm đối với nhiều loại hàng cũng ảnh hưởng đến mặt bằng giá trong nước
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

ên là nền kinh tế thị trường tự do, một bên là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Do những đặc điểm đặc thù của nền kinh tế nên giai đoạn này lạm phát hầu như chưa xuất hiện rõ nét .
Sau năm 1975, chúng ta đã giành được độc lập, thống nhất đất nước . Lúc đó, việc sát nhập hai hệ thống kinh tế, chính trị hoàn toàn khác nhau đã đặt ra những thử thách lớn cho chúng ta . Miền nam là một nền kinh tế thị trường tự do tương đối phát triển, có xuất khẩu .Đặc điểm của nền kinh tế miền nam lúc này là đô thị hoá, phát triển công nghiệp nhẹ và nhập khẩu công nghiệp nặng. Trong khi đó, ở miền bắc nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chủ yếu dựa vào viện trợ và nhập khẩu nước ngoài những hàng hóa tiêu dùng, và tập trung hoá cao tư liệu sản xuất .
1.2. Thời kỳ bắt đầu đổi mới
Trước đổi mới năm 1979, nền kinh tế nứơc ta được thống nhất từ hai mô hình kinh tế nêu trên vào một nền kinh tế hàng hoá tập trung quan liêu bao cấp với sự kiểm soát và can thiệp tập trung của chính phủ lên tất cả các hoạt động của nền kinh tế. Chúng ta chỉ chấp nhận hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Miền bắc với sự hợp tác hoá cao độ, tất cả các công ty đều thuộc sở hữu nhà nước từ cấp trung ương đến địa phương. Lĩnh vực nông nghiệp thì hợp tác hoá và quản lí theo hình thức hợp tác xã. Cả ngành công nghiệp và nông nghiệp đều dựa vào sự phân bổ vốn và nguyên liệu vật tư sản xuất của Nhà nước. Sản phẩm làm ra được phân phối theo kế hoạch định sẵn, hàng hoá tiêu dùng được định lượng dưới dạng tem phiếu. Điều này đã gây ra sự khan hiếm hàng hoá tiêu dùng. Trong khi đó ở miền Nam nền kinh tế thị trường đã phát triển từ trước năm 1975, còn nền kinh tế kế hoạch tập trung chỉ mới tồn tại từ sau năm 1975. Sự sát nhập giữa hai nền kinh tế khác nhau đã tạo nên hiện tượng phân tầng kinh tế. Mặc dù nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn tồn tại nhưng vẫn có một nền kinh tế thị trường phát triển ngầm trong đó.Và dù giá hàng hoá đã được Nhà nước quy định và hàng hóa được phân phối theo kế hoạch và tem phiếu, nhưng ngoài thị trường ngầm vẫn tồn tại hàng hóa ở một mức giá cao hơn mức giá Nhà nước quy định, hiện tượng lạm phát xuất hiện. Trong khi đó thì hàng hoá được phân phối theo định lượng ngày càng khan hiếm, giá cả thị trường ngày càng leo thang, điều đó dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng trong nền kinh tế. Những khó khăn này không thể khắc phục trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, đòi hỏi phải có sự thay đổi trong mô hình kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường hoạt động dưới sự điều tiết của Nhà nước.
Từ năm 1979 đến 1985 nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã bộc lộ nhiều yếu điểm và hạn chế đòi hỏi phải có sự đổi mới. Nhà nước đã có nhiều cố gắng đổi mới trong quản lý của các doanh nghiệp quốc doanh như: áp dụng nhiều những chính sách và biện pháp mới nhằm cải thiện nền kinh tế, nổi bật như hợp đồng khoán sản phẩm trong nông nghiệp , ba loại kế hoạch, trong đó kế hoạch ba cho phép các doanh nghiệp được tự do sản xuất kinh doanh, nhưng những điều đó không đem lại hiệu quả cao. Nền kinh tế đã khó khăn nay càng khó khăn hơn. Tiếp theo đó nền kinh tế lại có nhiều biểu hiện suy thoái khủng hoảng và lạm phát, sản xuất đình đốn, kinh doanh kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao, thu nhập quốc dân tăng không đáng kể, mức sống của nhân dân giảm sút, giá cả của thị trường chính thức và thị trường chợ đen có một khoảng cách khá xa, lạm phát phi mã đã xuất hiện và ngày càng trầm trọng. Tỷ lệ lạm phát năm 1984 ở mức 164,9%, năm 1985 là 191,6%, trong khi đó tăng trưởng lại giảm sút trông thấy, giảm từ 6% năm 1984 xuống khoảng 3% năm 1985, tăng trưởng và lạm phát thời kỳ này có thể nói là không có quan hệ gắn bó bởi những quy luật kinh tế thị trường trong giai đoạn này chưa hoạt động đúng, mà nhiều khía cạnh còn bị bóp méo do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp.
1.3. Lạm phát phi mã cuối thập kỷ 80
Cuối thập kỷ 80, cùng với sự cải tổ của Liên Xô, các nước Đông Âu lần lượt bị sụp đổ, nguồn viện trợ cho Việt Nam bị cắt giảm mạnh, giá cả đầu vào của sắt thép, dầu hoả, máy móc thiết bị tăng, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên. Mặt khác, tình hình trong nước khó khân, tiền không đủ chi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, để giải quyết tình trạng này chính phủ phải in thêm tiền để các xí nghiệp quốc doanh mua nguyên vật liệu. Nền kinh tế đã kiệt quệ lại càng khó khăn kiệt quệ hơn. Trước tình hình khó khăn đó, năm 1985 chính phủ đã đổi mới chính sách tiền tệ và thực hiện đổi tiền với tỷ lệ 10 đồng tiền cũ bằng 1 đồng tiền mới nhằm giảm bớt lượng tiền trong lưu thông. Đồng thời với đổi tiền là xoá bỏ bao cấp hàng tiêu dùng và điều chỉnh tiền lương. Giá cả hàng hoá nông nghiệp được tự do hoá theo thị trường. Cơ chế hai giá dần dần được xoá bỏ, tiến tới giá cả được hình thành và hoạt động trên cơ sở trao đổi thương mại. Giữa năm 1989 vai trò của khu vực tư nhân đã được thừa nhận, những quy chế về thúc đẩy và giải phóng mọi tiềm năng sản xuất của khu vực tư nhân được ban hành. Tuy nhiên sự phát triển của khu vực tư nhân vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi môi trường sản xuất kinh doanh của chúng chưa được hình thành. Trong nông nghiệp còn nhiều bất cập trong chế độ khoán sản phẩm, mức đóng góp bắt buộc còn quá cao, chi phí cho sản xuất cao trong khi giá của lương thực thực phẩm lại thấp. Nên nông dân không muốn tăng sản xuất của họ. Hơn nữa, bão lũ lại xảy ra ở một số địa phương, sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, nạn đói xảy ra ở một số nơi. Với những hoàn cảnh nêu trên người dân tích cực tích trữ hàng hoá lương thực, vàng và đô la vì sợ đồng tiền Việt Nam mất giá, tạo nên cầu giả tạo tăng cao, giá cả tăng vọt. Tất cả những điều trên là nguyên nhân gây ra lạm phát phi mã, trong khi tăng trưởng thì giảm xuống gần như không. Năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên đến 487,2%, năm 1987 là 301,3%, năm 1988 là 308,2%, năm 1989 tỷ lệ lạm phát ở mức 74,3%. Trong khi tăng trưởng kinh tế ở những năm này chỉ khoảng 1% đến 2%. Giai đoạn trước 1989 tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát luôn ngược chiều nhau. Bên cạnh sự đổi tiền là sự phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách, giá cả thì tự do, hàng hoá thì khan hiếm do sản xuất trong nước không tăng, trong khi nhập khẩu bị hạn chế do cơ chế xuất nhập khẩu chưa được tự do hoá. Như vậy một mặt tiền thì dư thừa trên thị trường, nhu cầu hàng hoá cao, cung hàng hoá thấp đưa đến lạm phát tăng nhanh đến chóng mặt, còn tỷ lệ tăng trưởng thì không những không tăng mà còn thụt lùi. Vào thời điểm này, lạm phát và tăng trưởng gần như không có mối quan hệ nào và nếu như có quan hệ thì số liệu cho thấy thì lạm phát càng cao thì tăng trưởng càng thấp.
1986
1987
1988
1989
Lạm phát
487,2
301,3
308,2...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top