hr_10012002

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Contents
CHƯƠNG I 3
DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007-2009 3
1. Tổng quan nền kinh tế Mỹ trước khủng hoảng 3
1.1 Tình hình sản xuất kinh doanh 3
1.2 Cán cân thanh toán 4
1.3 Thị trường chứng khoán 5
1.4 Thị trường bất động sản 5
2 .Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 6
3. Tác động của khủng hoảng Mỹ 8
3.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu 9
3.2 Tăng trưởng kinh tế 11
3.3 Thị trường chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng 12
3.3 Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao kỷ lục 14
3.4 Cán cân thương mại 14
3.5 Tỷ giá hối đoái 16
3.6 Khủng hoảng niềm tin 19
CHƯƠNG II 22
NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG 22
1. Nguyên nhân trực tiếp 22
1.1 Khủng hoảng nợ dưới chuẩn 22
Mô hình khủng hoảng nợ dưới chuẩn 25
1.2 Các phát kiến tài chính 25
2. Nguyên nhân gián tiếp 32
2.1 Bong bóng bất động sản 32
2.2 Quản lý lỏng lẻo, thông tin thiếu minh bạch 36
2.3 Đòn bẩy tài chính quá cao 38
2.4 Khủng hoảng niềm tin 40
CHƯƠNG III 42
BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA HOA KỲ 42
1. Biện pháp của Fed 42
1.1 Chính sách tiền tệ 42
1.2 Nghiệp vụ thị trường mở 43
1.3 Chương trình đấu giá cho vay kì hạn (Term Auction Facility Program-TARP) 44
1.5 Nỗ lực của Fed phản ánh qua sự thay đổi của bảng cân đối tài sản 44
2. Biện pháp của Chính phủ Mỹ 45
2.1 Chính quyền Bush và Đạo luật kích thích kinh tế (ESA) 45
2.2 Chính quyền Obama và đạo luật tái đầu tư và phục hồi ( ARRA) 47
CHƯƠNG IV 53
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 53
1. Sự cần thiết duy trì hệ thống tài chính ổn định và minh bạch 53
1.1 Việc thực thi các chính sách 54
1.2 Củng cố niềm tin 55
1.3 Nâng cao vai trò quản lý của ngân hàng trung ương 55
1.4 Bài học cho các ngân hàng trong hoạt động quản lý tín dụng 55
2. Công khai hoạt động 57
3. Xây dựng các gói kích thích kinh tế phù hợp với điều kiện của quốc gia 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
A. Giáo trình và nghiên cứu chuyên đề 60
B. Internet (E-Paper) 61


CHƯƠNG I
DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007-2009

1. Tổng quan nền kinh tế Mỹ trước khủng hoảng
1.1 Tình hình sản xuất kinh doanh
Mỹ có nền kinh tế thị trường lớn nhất thế giới - năm 2005, GDP của Mỹ ước tính đạt hơn 12.000 tỉ đô la. Đó là một tổ hợp gồm 20 triệu công ty lớn nhỏ, trong đó có nhiều công ty xuyên quốc gia với doanh số từ vài chục tỉ đến một, hai trăm tỉ đô la.
Các ngành không trực tiếp sản xuất ra hàng hóa gồm thương mại, giao thông vận tải, ngân hàng đã tạo ra đến 70% GDP, trong khi tỷ trọng của các ngành như nông nghiệp còn khoảng 3%; các ngành công nghiệp chế tạo truyền thống như dệt may tính cạnh tranh không mạnh như trước; ngành ô tô tuy vẫn là ngành quan trọng nhưng đang có nguy cơ phá sản vì bị cạnh tranh gay gắt về giá bán. Sự phát triển của nền kinh tế Mỹ gắn liền với sự cạnh tranh buộc các công ty phải luôn năng động và cải tiến để tồn tại và đi lên. Từ năm 1773 đến năm 2005, nền kinh tế Mỹ đã trải qua 232 năm với sự cạnh tranh không ngừng và ngày càng quyết liệt.
Trong gần hai thập kỷ qua, kinh tế Mỹ đã phát triển khả quan, trải qua ba chu kỳ rưỡi lên xuống, ngoại trừ năm 1991 là GDP âm 0,2%, còn lại đều có chỉ số tăng dương, trong đó có 11 năm đạt từ 3,5 đến 4,5%. Lạm phát được kiểm soát trong khoảng 6,4% (1990) - 2,3% (năm tài chính 2004) so với trên 12% những năm 1970. Năng suất lao động gần như tăng ổn định, đạt từ 3,4% đến 4% trong bốn năm từ 2000 đến 2004.




Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ so với các nước phát triển và Thế giới

Nguồn: IMF Data Mapper
1.2 Cán cân thanh toán
Nước Mỹ thiếu hụt trong cán cân thanh toán tiếp diễn từ năm 1983 và ngày càng ở mức trầm trọng trước khi diễn ra cuộc đại suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2008 . Trước năm 1993, tỉ lệ thiếu hụt trên GDP dưới 1%; từ năm 2000 tỉ lệ này tăng lên trên 3% ở mức mà các nhà kinh tế thường đánh giá là có vấn đề nghiêm trọng. Nhưng thay vì được điều chỉnh, tỉ lệ thiếu hụt vào năm 2005 và 2006 vượt lên trên 5%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ chiếm khoảng 25% GDP, là mức không phải cao trên thế giới, nhưng giá trị tuyệt đối là rất lớn. Ví dụ, hàng năm Mỹ nhập khẩu 72-76 tỉ đô la hàng dệt may, 15 tỉ đô la giày dép, 25-27 tỉ đô la đồ gỗ...
Nếu tính theo giá trị tuyệt đối, năm 2006 cán cân thanh toán của Mỹ thiếu hụt lên tới 721 tỉ USD.
1.3 Thị trường chứng khoán
Đặc trưng của kinh tế Mỹ là có một thị trường vốn rất phát triển. Thị trường chứng khoán Mỹ có tổng giá trị lên đến 33,4 ngàn tỉ đô la, tức gấp gần ba lần GDP của một năm. Riêng giá trị của thị trường chứng khoán New York đã là 20.000 tỉ đô la, với hơn 2.000 công ty niêm yết, giao dịch có ngày lên đến hơn 2,5 tỉ cổ phiếu. Hơn một nửa dân số Mỹ tham gia đầu tư tại các thị trường chứng khoán, trong khi đó sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài cũng ngày càng tăng. Tính đến tháng 4-2005, các nhà đầu tư ngoại quốc sở hữu 38% trái phiếu chính phủ Mỹ, 23% trái phiếu của các công ty Mỹ và 11% trái phiếu của các tổ chức, các quỹ của Mỹ.
Độ hấp dẫn về đầu tư của thị trường chứng khoán Mỹ vẫn cao, và do đó các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vốn vào Mỹ. Mỹ dùng nguồn vốn này cân đối lại các thâm hụt của mình, tiếp tục chấp nhận tình trạng nợ lớn. Đến hết năm 2004, riêng chính phủ các nước châu Á đã mua 1,1 ngàn tỉ đô la trái phiếu chính phủ Mỹ, tăng 22% so với năm trước đó; tính đến tháng 9-2005 Nhật Bản mua của chính phủ Mỹ 687 tỉ, Trung Quốc mua 252 tỉ và Anh mua 182 tỉ đô la chứng khoán.
1.4 Thị trường bất động sản
Năm 2005, tại Mỹ, giá nhà đất đã tăng ở mức trung bình 12,5 %, thậm chí tăng đến 20% tại một số bang như California, Nevada, Hawaii, Maryland, Washington DC và tăng ở mức độ khủng khiếp tới 35% tại Palm Beach, Florida. Trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, tại California, đã có 500 nghìn giấy phép kinh doanh bất động sản được cấp. Tuy nhiên, đến cuối năm 2006, bức tranh về tình hình kinh doanh địa ốc ở Mỹ đã xấu đi, các chuyên gia kinh tế thế giới đã thông báo rằng "một vụ nổ bong bóng lịch sử sẽ đến".Từ năm 2002 - 2007, nợ tiêu dùng của người Mỹ đã tăng 13%, nợ cầm cố tăng 23%. Do giá cả bất động sản tăng ở mức cao, nhiều người dân Mỹ đã đổ tiền bạc vào thị trường bất động sản vì họ cho rằng đầu tư vào lĩnh vực này sẽ mang lại những khoản lợi nhuận cao hơn các lĩnh vực khác, còn nếu có tệ cũng là ngang ngửa nhau. Tuy nhiên, theo thống kê của một số chuyên gia tài chính thì thực tế đã không hẳn như vậy: trong thời gian từ 1890 - 2004, giá nhà đất tại Mỹ tăng 0,4% mỗi năm, tăng 0,7% từ 1940 - 2004 và chỉ tăng trung bình 1% mỗi năm. Những con số này nhỏ nhoi hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ thị trường chứng khoán hay trái phiếu. Do vậy, khi thị trường bất động sản đã lên tới mức bão hòa theo đúng quy luật của thị trường, kẻ bán nhiều hơn người mua, thì việc quả bóng bất động sản xì hơi là điều tất yếu.
2 .Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ

Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. Merrill Lynch đã phong toả số tiền lên tới 800 triệu USD của 2 quỹ này.
Ngày 15/08/2007: Cổ phiếu của Countrywide Financial (công ty cho vay cầm cố lớn nhất ở Mỹ) giảm khoảng 13% trên sàn chứng khoán New York do các nhà đầu tư lo ngại công ty có thể đối mặt với rủi ro phát sản từ thông tin Countrywide Financial có các khoản xiết nợ và nợ quá hạn trong cho vay cầm cố đã tăng lên mức cao nhất kể từ đầu năm 2002. Đây được coi là mức giảm trong ngày lớn nhất kể từ khủng hoảng TTCK năm 1987.
Ngày 18/09/2007: FED tiếp tục cắt giảm 0.5 điểm phần trăm lãi suất liên ngân hàng định hướng (Fed Funds Rate) xuống còn 4.75%/năm đã thúc đẩy TTCK Mỹ và kéo theo cả thị trường Châu Á tăng trưởng mạh do kỳ vọng lãi suất sẽ giảm giúp phục hồi nền kinh tế Mỹ.
Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11
Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 USD một cổ phiếu.
11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường
1.4 Bài học cho các ngân hàng trong hoạt động quản lý tín dụng
Từ khi bắt đầu khủng hoảng, Fed và các cơ quan giám sát khác của Mỹ đã hợp tác với các cơ quan giám sát nước ngoài để tìm ra nguyên nhân khủng hoảng và những bài học của nó. Sự phối hợp quốc tế đã giúp các cơ quan giám sát Mỹ học hỏi kinh nghiệm quốc tế và giúp so sánh hoạt động của các tổ chức tư nhân Mỹ với các tổ chức tài chính toàn cầu.
Các phân tích đã tái khẳng định rằng an toàn vốn, xây dựng kế hoạch thanh khoản hiệu quả và tăng cường quản lý rủi ro là những yếu tố cần thiết nhất để hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn và phát triển tốt. Khủng hoảng cho thấy một số tổ chức tín dụng đã có những thiếu sót nghiêm trọng ở một hay các mặt nêu trên. Cuộc khủng hoảng cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường tính thận trọng và hiệu lực của các cơ quan giám sát nhằm đảm bảo rằng các tiêu chuẩn đặt ra phải được thực hiện. Ngân hàng trung ương cần thực hiện giám sát chặt chẽ tỷ lệ vốn của các tổ chức tài chính tương ứng với mức độ rủi ro của tài sản và trao đổi đánh giá với các nhà quản lý cấp cao của các tổ chức này. Đồng thời có những quy định chặt chẽ về tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các NHTM nhằm tránh hiểm hoạ chạy theo lợi nhuận của các đơn vị này dẫn đến những hiểm hoạ khôn lường khi nền kinh tế có biến động.
Khủng hoảng cũng cho thấy tầm quan trọng của việc quản lý thanh khoản hiệu quả. Các tổ chức tín dụng cần theo dõi trạng thái thanh khoản và đưa ra các chiến lược thanh khoản, các diễn biến chính của thị trường và rủi ro thanh khoản. Từ thực tiễn cho thấy để có được khả năng thanh khoản đầy đủ đòi hỏi một tổ chức phải có nhiều hơn những tài sản có tính thanh khoản cao so với những tài sản mà các ngân hàng nắm giữ trong điều kiện bình thường;- tất nhiên khi duy trì tỷ lệ thanh khoản cao cũng đồng nghĩa với việc các đơn vị này phải hy sinh một phần mục tiêu lợi nhuận- và trên thực tế việc thực hiện giải pháp này luôn gặp khó khăn các tổ chức tài chính còn phải dự tính đến trạng thái thanh khoản khi thị trường rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
Sau vốn và thanh khoản thì nhân tố chính thứ ba đảm bảo hệ thống gân hàng hoạt động an toàn và lành mạnh là quản lý rủi ro hiệu quả.Ccác ngân hàng cần nâng cao hoạt động quản trị rủi ro của mình.
Để đảm bảo được tính thanh khoản và quản lý rủi ro tốt các tổ chức tín dụng cần tuân thủ các nguyên tắc cho vay chặt chẽ. Xác định rõ việc mục đích các khoản vay, thực hiện theo đúng nguyên tắc cho vay, thẩm định thật kỹ các dự án và làm tốt công tác giảm sát các khoản vay. Thực tế, vì mục tiêu lợi nhuận và không lường trước được những hiểm hoạ của sự tăng trưởng không lành mạnh các ngân hàng ở Mỹ đã cho vay ô ạt và việc cho vay không còn dựa trên những tiêu chuẩn chặt chẽ như trước, hệ quả là các ngân hàng này đang tự đánh cược mình vào khả năng trả nợ của những khách hàng có rủi ro vỡ nợ cao.
1. Công khai hoạt động
Để giải bài toán khủng hoảng, cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều đưa ra một phương pháp giải giống nhau- đó là sử dụng gói kích thích kinh tế, tuy nhiên cách thức thực hiện thì hoàn toàn khác nhau. Vậy, ta cần học những gì từ cách giải bài toán trên của chính phủ Hoa Kỳ?
Vẫn là những điểm yếu của kinh tế Việt Nam cũng như của việc thực thi các chính sách ở Việt Nam. Tại sao chính phủ Mỹ công khai gói kích cầu thông qua việc thiết lập một trang web riêng về gói kích cầu? Hay như người láng giềng Trung Quốc thành lập 24 tổ kiểm tra với sự tham gia của nhiều cơ quan, bộ ngành? “Khi khủng hoảng tài chính ập đến, điều quan trọng thứ nhất là lòng tin” (Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo) – vẫn là vấn đề về lòng tin như đã trình bày ở trên. Thực tế đã chứng minh, : bài học về xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng càng có giá trị hơn trong thời kỳ khủng hoảng “Kích cầu” lòng tin của nhân dân có thể tạo sức bật mới cho nền kinh tế.
Việc lập một website có lẽ không khó, nhưng vấn đề nằm ở chỗ, làm thế nào để đảm bảo công khai chi tiết từng thông tin, từng đồng được chi tiêu, mới là việc khó gấp bội. Một trong những tiêu chuẩn hàng đầu của quản trị Chính phủ là minh bạch. Vì minh bạch là điều kiện tiên quyết để luật pháp phát huy tác dụng, được thực thi nghiêm chỉnh.
Công khai thông tin làm gia tăng mạnh mẽ niềm tin vào Chính phủ. Niềm tin của nhân dân là yếu tố then chốt tạo ra sự ổn định chính trị. Đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế, bóng mây khủng hoảng lan rộng, bao trùm toàn cầu; việc củng cố niềm tin của nhân dân càng có ý nghĩa thiết thực hơn, không chỉ góp phần tăng cường sự ủng hộc của nhân dân vào những nỗ lực và biện pháp đúng đắn của Chính phủ, mà hơn nữa, cũng là biện pháp tâm lý, trấn an niềm tin và đồng thuận của nhân dân vượt qua những thời điểm khó khăn của khủng hoảng.
2. Xây dựng các gói kích thích kinh tế phù hợp với điều kiện của quốc gia
Như đã nêu ở trên, để khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính, Chính phủ Mỹ đã đưa ra các gói kích thích kinh tế trị giá hàng trăm tỷ USD. Trong thời gian ngắn, đây được coi là biện pháp phù hợp kịp thời giải quyết hậu quả khủng hoảng. Theo Paul Krugman, nhà kinh tế đoạt giải Nobel 2008: “Gói kích thích kinh tế không hoàn toàn quét sạch hậu quả khủng hoảng, nhưng nó đã kéo nền kinh tế thoát khỏi vòng xoáy suy thoái. Trợ cấp thất nghiệp và cứu trợ cho chính quyền bang và địa phương có lẽ là những yếu tố quan trọng nhất”. Tuy nhiên, trong dài hạn, gói kích thích kinh tế của Mỹ tỏ ra ít hiệu quả một khi tỷ lệ thất nghiệp giảm rất chậm, tăng trưởng GDP không mấy khả quan. Từ thực tế đó cho thấy, việc thực hiện chính sách kích cầu kinh tế của Chính phủ các nước, trong đó có Việt Nam, là hành động nằm trong xu thế chung của thế giới, tuân theo quy luật khách quan. Vấn đề ở đây là chúng ta cần xác định rõ ràng mục tiêu, hoàn cảnh kinh tế cũng như khả năng của mình nhằm xây dựng những gói kích thích kinh tế hiệu quả, tránh gặp phải những tác động phụ như trong chính sách kích thích kinh thế của Mỹ.
Hiện tại, Chính phủ Việt Nam đã đang thực hiện hai gói kích cầu : gói kích thích kinh tế thứ nhất hỗ trợ lãi suất 4% đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện vay vốn ngân hàng trong thời hạn tối đa là 8 tháng. Gói thứ hai cung cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp, song hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng thời gian 24 tháng.
Thứ nhất, cả hai gói kích thích kinh tế của Việt Nam đều hướng tới mục tiêu hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nhằm về xuất khẩu,. Trong khi đó, chính sách kích cầu của Mỹ nhằm vào kích thích tiêu dùng nội địa, giảm các dòng thuế. Sự khác biệt về mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ đã dẫn đến việc xây dựng các mục tiêu khác nhau của chính sách kích cầu. Thực tế cho thấy, mô hình tăng trưởng của Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều bởi tổng cầu nước ngoài do phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, do đó bản thân Việt Nam không lựa chọn tăng tổng cầu nội địa mà chọn duy trì nhân tố được Chính phủ đánh giá là quan trọng của nền kinh tế là các doanh nghiệp sản xuất trong nước (mà phần không nhỏ là các DNNN) và doanh nghiệp nhắm về xuất khẩu. Trái lại, các gói kích thích kinh tế Mỹ nhắm vào duy trì tái tạo việc làm - thị trường bị tác động nặng nề trong khủng hoảng và làm ảnh hưởng đến tổng cầu xã hội, cố gắng kích cầu cá nhân. Các khoản hỗ trợ thuế trực tiếp cho doanh nghiệp vì thế chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong gói kích thích kinh tế này.
Thứ hai, mô hình kích cầu Mỹ diễn ra sau một gói cứu trợ hệ thống ngân hàng, trong đó gói cứu trợ ngành ngân hàng của Mỹ lên đến 700 tỉ đô la. Sau đó, quốc gia này mới tiến hành gói kích cầu kinh tế. Trong khi đó, mô hình của Việt Nam là không có gói hỗ trợ ngân hàng. Nguyên nhân là vì khủng hoảng tài chính không tác động trực tiếp đến hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, ngân hàng không bị thua lỗ do các khoản nợ thứ cấp và các khoản đầu tư tài chính.
Như vậy, Việt Nam đã rút ra được nhiều bài học từ chính sách kích thích kinh tế của Mỹ. Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của quốc gia mÌnh, Chính phủ Việt Nam đã có những bước đi đúng trong việc thực hiện những gói kích cầu phù hợp dựa trên những thành công Mỹ đã đạt được. Từ đó, góp phần duy trì một thị trường việc làm ổn định thông qua hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, để chính sách kích cầu của Việt Nam đạt hiệu quả cao nhất, Chính phủ cần tác động từ nhiều mặt và đưa ra những biện pháp linh hoạt hơn trong từng điều kiện kinh tế.
KẾT LUẬN

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top