keo_que2007

New Member
Download Tiểu luận Lạm phát ở Việt Nam

Download Tiểu luận Lạm phát ở Việt Nam miễn phí





Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên
tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu
chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn
phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết
chặt cho vay. với mục tiêu chung là kìm chếlạm phát, ổn định kinh tế. Tuy
nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút
nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ -ThS Hồ Quốc Tuấn đăng trên
Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế
Việt Namphải trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức
bắt buộcđối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm
trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên
cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản,
lãi suất tái cấp vốn. đã được tiến hành.



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng
hóa tính CPI. Trong các năm trước đây, mặc dù nhiều nhóm mặt hàng khác
có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm,
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 11
nhất là giá lúa gạo, giá cao su, cà phê, hạt điều, thịt lợn, rau hoa quả biến
động thất thường. Trong các năm 1991, 1993, 1994, 1998, ... giá lương thực
và thực phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng tăng cao.
Ngược lại, trong các năm 1997, 1999, 2000, ... các mặt hàng lương thực,
thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm cho CPI ở mức rất
thấp, thậm chí là âm. Nhưng năm 2004 nhóm mặt hàng này đã tăng tới 15%;
trong đó giá lương thực tăng 12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8%, đã tác
động mạnh làm gia tăng cao chỉ số CPI nói chung. Do đó nếu loại bớt được
sự tăng giá đột biến gây những cú sốc trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm
phát không cao như đã công bố.
2. Điều tiết vĩ mô kém
Một thực tế cần thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước
những biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị
trường trong nước là còn nhiều bất cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược
leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối loạn thị trường
thuốc chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về
thuốc tân dược; Các quyết định quản lý được đưa ra để điều tiết thị trường
thường là chậm trễ, vì thế hiệu quả điều tiết kém. Thí dụ: việc điều chỉnh
giảm thuế thép, phôi thép mặc dầu được kiến nghị từ tháng 1/2004 nhưng
đến tháng 3/2004 mới được thực hiện, vào lúc này giá phôi thép đã tăng lên
480-500 USD/tấn và giá thép xây dựng đã tăng lên tới 500-520 USD/tấn. Do
vậy các doanh nghiệp khi nhập khẩu tại thời điểm này khó có khả năng cạnh
tranh với các doanh nghiệp đã nhập phôi thép trước đó; Tình trạng độc
quyền, đầu cơ trục lợi vẫn còn phổ biến dẫn đến thao túng, gây rối loạn thị
trường; Cũng do quản lý kém đã dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí
trong đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn. Hệ lụy tất yếu của những tình trạng
trên là thị trường trong nước thêm rối loạn; Khi chỉ số lạm phát gia tăng
nhanh chóng trong những tháng đầu năm 2004, mặc dù tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế là phù hợp với các chỉ số kinh tế vĩ mô (sẽ được
phân tích ở phần dưới đây), nhưng dưới sức ép của dư luận, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam lại thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm mức
cung ứng tiền tệ. Như vậy Ngân hàng Nhà nước đã khắc phục bất hợp lý này
bằng một bất hợp lý khác. Hệ quả của nó là đẩy lãi suất lên cao, tăng chi phí
đầu tư, hạn chế đầu tư, kìm hãm sản xuất và tăng thất nghiệp.
3. Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi
tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này
về nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh
toán tăng lên trong kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát sinh ở kỳ sau, trong
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 12
ngắn hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14
năm qua, mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%-26%/năm,
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm
phát, cũng như giảm phát. Năm 1999 tổng phương tiện thanh toán tăng cao
nhất, tới 39,25%, nhưng các năm 1999, 2000 và 2001 tốc độ tăng chỉ số CPI
ở mức thấp, thậm chí năm 2000 còn giảm 0,6%. Các năm 1994, 1995, 1998,
chỉ số CPI tăng cao, nhưng các năm đó và năm trước đó tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán vẫn ở mức trung bình nhiều năm. Năm 1998, tổng
phương tiện thanh toán tăng thấp nhất, chỉ có 20,33%, nhưng CPI lại tăng tới
9,2%. Trong 6 tháng đầu năm nay tổng phương tiện thanh toán tăng 7,26%,
thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2003 là 8,28%. Song chỉ số tăng giá trong 6
tháng đầu năm 2004 đã là 7,2%. Còn trong năm 2004, tổng phương tiện
thanh toán, tốc độ tăng trưởng vốn huy động và tăng dư nợ cho vay, ... đều
thấp hơn mức cùng kỳ năm ngoái, nhưng CPI đã là 9,5%. Tất nhiên như đã
nói ở trên là có độ trễ về mặt thời gian, thường từ 6 tháng đến 1 năm.
Như vậy có thể khẳng định, lạm phát ở Việt Nam trong hơn 14 năm
qua nói chung và năm 2004 nói riêng không phải là lạm phát tiền tệ.
4. Do cầu kéo
Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng
hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do
đó hầu như không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới
tăng giá một hay một số mặt hàng nào đó. Song trong năm 2004, do ảnh
hưởng của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm giảm
mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục
tăng lên, làm cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến. Đồng thời
nhu cầu của người tiêu dùng được chuyển sang các mặt hàng thực phẩm
khác nên đã làm cho nhóm hàng thực phẩm nói chung tăng cao, tới 16,8%
trong 9 tháng đầu năm 2004. Mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản
từ cuối năm 1999, do vậy nhu cầu xây dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của vật
liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất đồng lọat tăng lên.
Một diễn biến khác cũng xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất
khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện và khối lượng gạo xuất khẩu tăng, thị
trường xuất khẩu thủy sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá của các mặt
hàng lương thực, thủy hải sản tăng lên.
5. Do chi phí đẩy
Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu
trên thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên
liệu nhựa, phân đạm Urê, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm
cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong
năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần. Tình hình đó làm cho chi phí của
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 13
một loạt lĩnh vực tăng lên, nhất là giao thông vận tải. Giá cước vận chuyển
hàng không tăng 8%, vận tải đường sắt tăng 10% nhằm thực hiện chính sách
hòa đồng giá vé giữa người Việt Nam và người nước ngoài, ... Bên cạnh đó
chi phí xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, ... của người nông dân cũng tăng
cao. Giá sắt thép tăng làm cho ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi
phí. Nguyên liệu nhựa và bột giấy tăng... cũng làm cho chi phí của một loạt
ngành sản xuất và một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên.
Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản từ năm 1999 đến
nay, hệ lụy của nó là vô cùng lớn. Đáng nhẽ các nguồn tiền nhãn rỗi trong
nền kinh tế đặc biệt là trong dân cư phải được tập trung để đầu tư phát triển
sản xuất thì nay mọi người lại dồn hết tiền để kinh doanh bất động sản gây
rối lo
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top