speed_love_xxx

New Member
Download Nhìn lại vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam

Download Nhìn lại vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam miễn phí





Bên cạnh những đóng góp tích cực như đã khái quát trên, FDI cũng đã và đang
tạo ra không ít những vấn đề, tác động tiêu cực, làm bức xúc dưluận xã hội. Chất lượng thu
hút FDI còn thấp, thiếu tính bền vững là một thực tếkhó bác bỏ. Biểu hiện rõ nhất của hạn
chếnày là phần giá trịgia tăng còn thấp. Nhưchúng ta đã biết các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam hiện đóng góp một tỷlệquan trọng vềkim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, theo số
liệu tổng hợp từTổng cục Thống kê, UN, và JETRO do Giáo sưTrần Văn Thọtừ Đại học
Waseda (Tokyo) thực hiện, cơcấu xuất khẩu của Việt Nam hầu nhưkhông thay đổi từ
2004–2006, trong đó nông thủy sản, thực phẩm và các mặt hàng giá trịgia tăng thấp như
dệt, may, và tạp phẩm chiếm đến 49,4% so với tỷlệ14,5% của các quốc gia Đông Á và Ấn
Độ. Và ngược lại, đối với các ngành chếtạo đòi hỏi công nghệcao hơn nhưmáy móc các
loại, máy phát điện, máy công cụ, xe hơi và bộphận xe hơi, đồ điện tửvà IT thì Việt Nam
chỉchiếm tỷlệ7,5% so với 54,6% của Đông Á và Ấn Độ Phần lớn các doanh nghiệp FDI
tập trung khai thác lợi thếlao động rẻ, nguồn tài nguyên sẵn có, thịtrường tiêu thụ“dễtính”
đểlắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụnội địa và xuất khẩu



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

iệc
làm,…Ngoài ra, FDI cũng đóng góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt
Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI
mà Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết
đến là quốc gia phát triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng
quốc tế.
1.2. Bên cạnh những đóng góp tích cực, FDI cũng đã và đang tạo ra nhiều vấn đề
ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của tăng trưởng và chất lượng cuộc sống của người
dân. Gần đây, đã xuất hiện hàng loạt vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội, trong đó nổi bật là
chất lượng sử dụng FDI thấp, thiếu tính bền vững, ô nhiễm môi trường trầm trọng. Thêm
vào đó, hiện tượng FDI đầu tư mạnh vào các lĩnh vực bất động sản, sân golf và các dự án
công nghiệp nặng có nguy cơ gây ô nhiễm cao đang dấy lên làn sóng cần xem xét lại
vai trò của FDI trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam. Vậy cần nhìn nhận thế nào cho
đúng vai trò của FDI ? và nên phải làm gì để nâng cao vai trò của nguồn vốn quan trọng
này đối với thực hiện các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới?. Bài viết này có mục đích đóng góp vào
việc đi tìm câu trả lời cho các vấn đề đã nêu.
2. Vai trò của FDI trong 20 năm đổi mới nền kinh tế của Việt Nam vừa qua
2.1. Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài (12/1987) trong bối cảnh
phát triển kinh tế - xã hội còn rất thấp. Hạ tầng cơ sở cùng kiệt nàn, khoa học công nghệ lạc
hậu, nguồn nhân lực phần lớn chưa qua đào tạo,…Trong khi đó, nhu cầu phát triển luôn
phải đối mặt với sức ép cần vồn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh xuất khẩu,… để khai
thác lợi thế so sánh nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn
định đời sống xã hội. Mặt khác, từ những năm cuối thập kỷ 80 đến hết thập kỷ 90 của thế kỷ
2
trước, xu hướng đầu tư quốc tế vào các nước đang phát triển chủ yếu tập trung vào các ngành
khai thác, công nghiệp chế tạo và những ngành cần nhiều lao động. Trong bối cảnh phát triển
đó, Việt Nam rất khó thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao, sản xuất những sản phẩm có
giá trị gia tăng lớn hay vào những ngành phải đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của bảo
vệ môi trường. Vì vậy, việc định hướng thu hút FDI vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế
tự nhiên, phù hợp với trình độ phát triển và đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế là khá phù
hợp. Do đó, mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng FDI đã đóng góp rất tích cực, có vai
trò như những trụ cột đối với thành công của chính sách đổi mới nền kinh tế.
2.2. Đóng góp quan trọng dễ thấy nhất đó là tăng cường nguồn vốn đầu tư cho tăng
trưởng. Vốn FDI (giải ngân) đã tăng từ 2,451 tỷ USD năm 2001 lên 8,100 tỷ USD năm
2007 và đạt được khoảng 40 tỷ USD trong gian đoạn 1988 đến nay. Đóng góp của FDI
trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã
tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 20%) và trong 5 năm
2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng
16%1. Ưu điểm vượt trội của nguồn vốn này so với các nguồn vốn đầu tư khác là đi kèm
theo chuyển giao công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận kiến thức quản lý hiện đại. Mặt
khác, so với các nguồn vốn nước ngoài khác, vốn FDI “ít bị nhạy cảm” trước những biến
động của thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế ở các nước Đông Nam Á bị khủng hoảng tài
chính năm 1997 đã chứng minh rất rõ đặc điểm này.
2.3. Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI là một trong những kênh chủ yếu, có
tính đột phá để nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam. Chuyển giao công nghệ qua các
dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning
by doing), nhờ đó đã hình thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay
nghề khá cao. Khảo sát cho thấy, có 44% doanh nghiệp FDI thực hiện đào tạo lại lao động
với các mức độ khác nhau (cho khoảng 30% số lao động tuyển dụng). Đối với một số khâu
chủ yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hay đặc thù, lao động sau khi tuyển dụng được
đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước ngoài2. Đến nay, hầu hết các công nghệ có
trình độ tiên tiến và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cao ở Việt Nam được tập trung
trong khu vực có vốn FDI.
2.4. Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò của FDI
trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực FDI đạt
10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch
xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%, tính cả dầu thô thì tỷ trọng
này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007 (xem
biểu đồ 1).
1 Tổng cục Thống kê, 2007
2 Lý Hà, Lao động FDI mới có 40% qua đào tạo, 2/5/2007, VnEconomy
3
Biểu đồ 1: Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng xuất khẩu của
cả nước (1996-2007)
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
1996-2000
2000
2003
2004
2005
2006
2007
%
Xuất khẩu của khu vực FDI Xuất khẩu của cả nước
Nguồn: Thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu của Bộ Công thương 2007
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng rất nhanh, từ 18,398 triệu USD năm
1996 tăng lên 30,120 USD năm 2000 và đạt tới 84,015USD năm 2006.1 Ngay cả trong
những năm xuất khẩu của các ngành kinh tế khác tăng chậm hay giảm thì xuất khẩu của
khu vực FDI vẫn tăng cao, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu của cả nước khá cao
trong nhiều năm. Cũng cần lưu ý rằng khu vực FDI có mức thặng dư thương mại khá cao.
Điều đó góp phần làm giảm mức thâm hụt thương mại chung cho cả nền kinh tế.
2.5. Tạo việc làm là những đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận của khu vực
FDI. Tính đến năm 2007 khu vực có vốn FDI đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động
trực tiếp, trong đó nhiều lao động đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Mặc dù so với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì số việc làm được tạo ra còn hạn chế, nhưng “chất lượng” của
lực lượng lao động trong khu vực FDI tốt hơn rõ rệt. Nhiều cán bộ, công nhân trong khu
vực FDI đã và đang là những “hạt nhân” để phát triển lực lượng lao động trình độ, tay nghề
cao của Việt Nam. Thêm vào đó, số việc làm tạo ra nhờ hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI
cũng có thể là một con số đáng kể 2.
2.6. Mặt khác, trong suốt 20 năm qua, FDI đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân
sách Nhà nước. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp FDI đã nộp
ngân sách đạt 1,49 tỷ USD; gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách
trong khối doanh nghiệp FDI
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top