toan1898

New Member
Hy Mã Lạp Sơn



Xuân Diệu



(1916-1985)

















Nghìn thế kỷ vừa theo nghìn thế kỷ,



Ta đứng đây nhìn thấy triệu mặt trời



Tắt và nhen và phân phát cho đời



Những thời (gian) tiết tái tê hay ấm áp



ở chốn tuyệt cú mù, dưới chân ta đẹp.



Ta đứng đây, vĩnh viễn giữa mùa đông,



Tuyết trên đầu vĩnh viễn chóa từng không.



Trán vĩnh viễn nặng mang sầu Trái Đất



Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất.



Không có ch bè bạn nối cùng ta



Bởi ghen trời, ta ngạo nghễ xông pha



Lên vút thẳm, đứng trên nghìn đỉnh núi,



Trên những chót vừa bỏ đồi dưới suối,



Trên những mây vừa bỏ núi ngang mây



Trên những đồng tuyết lạnh ở trên mây,



Ngang nhật nguyệt – Còn chi sân với ngõ!



Lầu vua chúa còn chi hơn bãi cỏ?



Nóc đền đài cũng thấp tựa lũng nham!



Ta lên cao như một ý siêu phàm



Nhìn vũ trụ muốn tranh phần cao vọi!



Đời vừa hết. Chỉ riêng ta đứng mãi



ở nơi đây không dấu vết loài người



Mua sạch trong bằng nỗi rét ngàn đời



Làm kiêu hãnh giữa lặng im bất dịch



Mây với gió chẳng bao giờ tới đích



Phượng hoàng lên, vừa thử cánh vừa sa



Cỏ đôi chòm không gợn sắc xanh pha



Thoáng linh động nào qua con thú nhỏ



Hiu hắt nhẽ bốn phương trời vò võ,



Lạnh lùng chăng sầu một đỉnh chon von…



Ta tưởng nghe tê tái sắc câu dòn



Buồn vạn kỷ không ai vươn mắt ngắm



Ta cao quá, thì núi non thấp lắm,



Chẳng chi so, chẳng chi đến giao hòa



Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta



Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thê tuyệt!



Ngoài tang trắng của tuyết rồi lại tuyết,



Họa chăng nghe gần gũi khúc ca trời;



Trong veo ngàn, hơi thuần túy của hơi



Xuyên ngày tháng, vẫn vỗ về bên mái,



Và trời rót khúc ca trời cảm khái:



- “Cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn



“Người lên trời, ôi Hi-mã-lạp-sơn!”







1935-1941
 

tracych0u90

New Member
Thơ tình Xuân Diệu trước năm 1945



--- Lê Hương Giang ---





Thơ Xuân Diệu là đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Sự xuất hiện của ông trên thi đàn vừa góp phần quyết định cho sự toàn thắng của phong trào Thơ mới. Năm 1941, khi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân vừa nhận xét "Thơ Xuân Diệu là nguồn sống rào rạt chưa từng có ở chốn non nước lặng lẽ này". Tiếp sau đó, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cho rằng: "Thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong các nhà Thơ mới", "là người mang đến cho thơ nhiều cái mới nhất". Nguyễn Đăng Mạnh thì cho rằng "Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người, một phát hiện về niềm hạnh phúc tuyệt cú vời mà cuộc sống trần thế này vừa ban phát cho nhân loại". Lê Đình Kỵ trong chuyên luận Thơ mới những bước thăng trầm vừa khẳng định: "Xuân Diệu xuất hiện trong phong trào Thơ mới với tất cả lòng say mê yêu đời". Trong những năm 1990, nhiều nhà nghiên cứu cũng có những nhận xét tương tự.



Ngay từ năm 1930, trong lời tựa viết cho tập Thơ Thơ, Thế Lữ vừa nhận xét: "Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng dân gian, ông vừa không trốn tránh mà lại còn quyến luyến cõi đời".



Chính "nguồn sống rào rạt", "lòng say mê yêu đời", "quyến luyến cõi đời" vừa đem đến cho thơ Xuân Diệu những nét mới lạ. Nói như tác giả Thi nhân Việt Nam: "Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới". Cái mới ở đây là một mạch sống mới, một cách cảm xúc mới được thể hiện bằng một ngôn ngữ, một giọng điệu mới lạ chưa từng có. Đó là khả năng diễn đạt những rung cảm tinh tế của cái tui cá nhân cá thể, tạo nên một cách tân đáng ghi nhận so với thơ truyền thống.



Trong thơ truyền thống, con người trở nên bé nhỏ, tan biến trong vũ trụ, hay con người hướng tới cái thiêng liêng, cái siêu việt. Trong thơ Xuân Diệu, con người cá nhân được ý thức và khẳng địnhcoi nhưtrung tâm của vũ trụ, "Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất". Có thể nói, đến Xuân Diệu, cái tui cá nhân thực sự được giải phóng. Nhà thơ tuyên bố hết sức chân thành những cảm xúc thiết tha, mãnh liệt của trái tim tràn đầy, cháy bỏng:



Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước và cây và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho vừa đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời (gian) tươi

Hỡi Xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.



(Vội vàng)



Vội vàng là bản tuyên ngôn của niềm khát sống và thèm yêu đến mãnh liệt. Chính khát vọng sống mãnh liệt, yêu cuồng nhiệt ấy vừa tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng trong thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu ví mình như "con chim đến từ xứ lạ ngứa cổ hát chơi", nhưng đó phải là tiếng hát thiết tha nồng nàn đến "vỡ cổ".



Ông kêu gọi:



Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi

Dù chỉ trong một phút mà thôi.



(Mời yêu)



Ông van xin:



Và hãy yêu tui một giờ cũng đủ

Một giây cũng cam, một chút cũng đành.



(Lời thơ vào tập gửi hương)



Ông đòi hỏi:



Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực

Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài

Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai

Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt

Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt



(Xa cách)



Ông khát khao được "ôm", được "ghì", được "say", được "cắn"... Tất cả đó là biểu hiện của một khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng ấy biểu hiện tập trung nhất ở tình yêu. Cảm hứng tình yêu là cảm hứng chủ đạo của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Ông có tuyên ngôn thơ về tình yêu một cách công khai, nâng tình yêu thành triết lí sống:



Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào



(Bài thơ tuổi nhỏ)



Nhà thơ quan niệm tình yêu như "là phần ngon nhất của cuộc đời" mà con người không thể thiếu được. Nhà thơ viết về tình yêu với những cung bậc khác nhau. Cảm xúc tình yêu trong thơ Xuân Diệu mãnh liệt, mặn nồng nhưng chân thành và mới mẻ. Đó là một tình yêu đích thực, không nghiêng về nhục cảm mà hài hòa, rất trần thế nhưng cũng rất lí tưởng, rất nhục thể nhưng cũng rất tâm linh. Nói như Nguyễn Đăng Mạnh: "Xuân Diệu không quan niệm tình yêu chỉ là sự giao cảm xác thịt mà còn là sự giao cảm của những linh hồn mà đấy mới là cái khát vọng cao nhất, cái đích cao nhất trong tình yêu".



Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm

Nên lúc môi ta kề miệng thắm

Trời ơi, ta muốn uống hồn em



(Vô biên)



Nhưng bên cạnh những cảm xúc nồng nàn của lòng ham sống, thơ Xuân Diệu cũng tràn đầy éo le và bi kịch. Càng chân thành, say mê, càng thèm khát được giao cảm với đời thì càng cô đơn và xa cách:



Em là em, anh vẫn là anh

Có thể nào qua Vạn Lý trường thành

Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.



Cảm giác cô đơn trong thơ Xuân Diệu thật thấm thía: "tui như con nai bị chiều đánh lưới". Cái tui cô đơn, bơ vơ cũng là một hình tượng thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám. Cô đơn ngay cả lúc tưởng như hạnh phúc ở gần kề:



Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng lớn quá

Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ.



(Trăng)



Một nỗi buồn da diết tràn ngập tâm hồn:



Gió sáng bay về thi sĩ nhớ

Thương ai không biết đứng buồn trăng.



(Buồn trăng)



Tác giả Thi nhân Việt Nam vừa khái quát: "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng lớn ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh". Nhận xét đó dường như tiêu biểu cho Xuân Diệu:



Em sợ lắm giá băng tràn tất cả nẻo

Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da



(Lời kĩ nữ)



Cuối cùng con người khao khát yêu ấy cũng là con người lạc bước:



Lòng ta là một cơn mưa lũ

Đã gặp lòng em là lá khoai



(Nước đổ lá khoai)



Trong cái xã hội xám xịt ấy, Xuân Diệu không tìm được niềm giao cảm nào. Đó cũng là bi kịch lớn nhất trong thơ tình Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám. Nhà thơ cũng ý thức được rằng trong cái xã hội mà "cơm áo không đùa với khách thơ" thì:



Ta như cô khách khoảng đìu hiu

Đã gặp chiều hôm, lại bước liều

Muốn trốn sầu đơn muôn vạn kiếp

Lại tìm sa mạc của tình yêu.



(Nước đổ lá khoai)



Do vậy thơ ông đầy những trăn trở, tiếc nuối về những phút trao yêu sao quá ngắn ngủi, về "tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại". Ông rất nhạy cảm với sự đổi thay của người đời "sự thật hôm nay không thật đến ngày mai", "đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn". Điều đó làm Xuân Diệu hốt hoảng, vội vàng, giục giã để tìm hiểu và tận hưởng hạnh phúc. Nhưng càng tìm kiếm càng cô đơn và tội nghiệp. Tấm lòng yêu mến cuộc sống của Xuân Diệu rất thiết tha nhưng không được đáp ứng như mong đợi của mình. Điều này tạo nên âm hưởng bi kịch trong lời thơ, giọng điệu thơ của Xuân Diệu.
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top