Download miễn phí Đề tài Lịch sử hệ thống ngân hàng thế giới





 

LỊCH SỬ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THẾ GIỚI 1

A.LỊCH SỬ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THẾ GIỚI: 1

I. Thời kỳ tiền sử và thượng cổ: 1

II. Thời kỳ trung cổ (thế kỷ V-XV SCN): 4

III. Thời kì phục hưng (Thế kỉ XV-XVIII): 7

1. Hoàn thiện những phương pháp chi trả mà không dùng tiền , thực hiện việc chi trả qua trung gian của thương phiếu hay bằng phương pháp bù trừ , nghiệp vụ bảo lãnh cũng được áp dụng trong thời gian này 7

2. Thực hiện nghiệp vụ hối đoái, chuyển ngân, tín dụng, bù trừ 7

IV.Thế kỷ XVIII-XX (giai đoạn đương đại): 9

V. Thế kỷ XX đến nay(giai đoạn hiện đại): 13

B.LỊCH SỬ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: 20

1.Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch. 2.Thời kỳ 1955 - 1975: 22

- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. 3. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. 22

4. Thời kỳ 1986 đến nay: Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện qua một số "cột môc" có tính đột phá sau đây: 22

C/TỔNG KẾT 24

 

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ảm bảo cho số lượng tiền – chứng thư tự do nói trên.
Hơn nữa, lúc đầu loại chứng thư này được đưa ra rất dè dặt và nhanh chóng được thu hồi. Mỗi khi người dân cần đổi ra tiền vàng, các ngân hàng đều đáp ứng rất mau lẹ. Vì thế, người ta bắt đầu quen dần với ý nghĩ tiền chứng thư do các ngân hàng phát ra cũng chẳng khác nào những đồng tiền vàng. Khi đại đa số nhân dân đã quen dần với ý nghĩ đó và chấp nhận chứng thư một cách tin tưởng, không do dự, các ngân hàng vì nhu cầu hoạt động của mình dần phát ra nhiều hơn loại tiền này, vào thời kỳ đó được gọi là “tiền ngân hàng” và nghiệp vụ phát ra các loại tiền ngân hàng ngày nay được gọi là nghiệp vụ phát hành.
Đến đầu thế kỷ XVIII, gần như mọi ngân hàng lớn đều thi hành những “công việc tổng hợp”, bao gồm nhận tiền gởi từ công chúng, cho vay và phát hành tiền ngân hàng. Tình trạng được phép phát hành tiền ngân hàng chẳng bao lâu đã bị lạm dụng. Năm 1837, ở tiểu bang Massachusetts của Mĩ, một ngân hàng tư nhân đã phát hành ra 500.000 USD tiền ngân hàng trong khi chỉ có dự trữ 86,48 USD vàng trong kho của mình để bảo chứng. Và đến trước cuộc nội chiến năm 1861, ở Hoa Kỳ có tất cả 7000 loại tiền ngân hàng khác nhau cùng lưu thông, trong đó chỉ có 5000 loại có đảm bảo thực sự bằng vàng.
Khi ấy, các ngân hàng tư nhân (trong đó chỉ có một số rất ít có cổ phần của Nhà nước) đua nhau phát hành tiền không có đảm bảo, bất chấp khả năng mà một lúc nào đó, nhân dân cùng nhau đến ngân hàng đổi giấy lấy tiền vàng. Tình huống này có khả năng dẫn đến sụp đổ tài chính và hoảng loạn, gây tác hại nặng nề đến các công dân gởi tiền, tình hình kinh tế, thương mại và sản xuất trong một khoảng thời gian dài. Mặt khác, trong trường hợp giả định các ngân hàng đều có lượng vàng trong kho đủ để bảo đảm cho lượng tiền giấy họ phát hành thì việc mọi ngân hàng đều có quyền phát hành tiền sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông có lúc quá thừa, có lúc quá thiếu, không ổn định và không thống nhất, dẫn đến kết quả là nên sản xuất, thương mại và giá cả thay đổi bấp bênh.
Đến năm 1819, sau ảnh hưởng từ sự sụp đổ của Ngân hàng Amsterdam (Hà Lan), chính quyền các nước và ngay cả giới ngân hàng đều ý thức được rằng việc giới hạn quyền phát hành rõ ràng là một việc làm cần thiết.
Chính phủ nhiều nước đã ban hành các đạo luật để hạn chế số lượng ngân hàng được phép phát hành giấy bạc và dần dần giữ cho các ngân hàng trung tâm độc quyền phát hành tiền, quyền kiểm soát dự trữ vàng, kiểm soát tín dụng và thực hiện việc điều hòa thanh toán cho cả hệ thống ngân hàng trong nước. Lúc này, hệ thống ngân hàng được chia ra thành 2 nhóm ngân hàng với các nghiệp vụ khác nhau:
- Thứ nhất, nhóm các ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành.
- Thứ hai, nhóm các ngân hàng không được phép phát hành tiền và chỉ thực hiện các nghiệp vụ cho vay chiết khấu nhận tiền gửi, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, gọi là ngân hàng trung gian.
Không phải bỗng nhiên người ta đi đến việc thành lập ngay một ngân hàng phát hành. Thật ra, ngân hàng phát hành thường thoát thai từ một ngân hàng thương mại. Khởi đầu, một ngân hàng thương mại nào đó chiếm một địa vị quan trọng trong hệ thống ngân hàng, được Nhà nước giao cho nhiệm vụ phát hành tiền tệ.
Mô hình ngân hàng quốc gia lần đầu xuất hiện tại Venice đầu thế kỷ 17. Trong lịch sử, ngân hàng đầu tiên phát hành tiền theo nghĩa hiện đại là ngân hàng Riskbank của Thụy Điển thiết lập từ năm 1656 và được cải tổ vào năm 1670 được phát hành tiền. Mặc dầu vậy, các nhà ngân hàng vẫn xem Ngân hàng Anh Quốc (Bank of England) là ngân hàng phát hành đầu tiên vì đã áp dụng những kỹ thuật và thi hành những nghiệp vụ được coi như là những nguyên tắc cơ bản của một ngân hàng ương hiện đại, là ngân hàng phát hành kiểu mẫu, có ảnh hưởng sâu rộng đến các ngân hàng phát hành sau này.
Ngân hàng Anh quốc (Bank of England) được thiết lập vào năm 1694 nhằm mục đích ứng tiền cho chính phủ. Lúc khởi đầu nó là một công ty do các tư nhân góp vốn lên tới 1.200.000 bảng Anh. Tổng số tiền này đều cho chính phủ Anh vay để được đổi lại đặc quyền phát hành tiền tệ trong một giới hạn nhất định do chính phủ Anh ban cho. Lúc bấy giờ nhiều ngân hàng khác của Anh cũng được đặc quyền phát hành tiền tệ. Tuy nhiên, đặc quyền của các ngân hàng này lần lượt bị giảm bớt trong khi đặc quyền của Ngân hàng Anh quốc lần lần được nới rộng.
Năm 1826, ngân hàng cổ phần tư nhân Anh quốc (BOE) được độc quyền phát hành tiền trong phạm vi Luân Đôn với bán kính 65 dặm (miles). Những ngân hàng khác muốn được quyền phát hành phải nằm ngoài khu vực nói trên.
Năm 1833, ngân hàng Anh quốc được độc quyền phát hành tiền pháp định trên toàn xứ Anh (chính quốc nước Anh lúc ấy có 4 vùng England, Scotland, Wales, Irelands), trong khi các ngân hàng khác không được phát hành thêm nữa ngoài số lượng đã phát hành.
Năm 1844, Luật ngân hàng (đạo luật Peel) bắt đầu áp đặt mức giới hạn tối đa cho quyền phát hành tiền của các ngân hàng khác. Theo đó, ngân hàng Anh quốc có thể phát hành tiền tệ vô giới hạn, miễn là số tiền đó được đảm bảo 100% bằng vàng. Tuy nhiên, với tính cách ngoại lệ, ngân hàng có thể phát hành một số lượng tiền tệ không đảm bảo như vậy lên tới mức tối đa là 14 triệu Anh kim. Chính đạo luật Peel đã dọn đường độc quyền phát hành cho Ngân hàng Anh quốc sau này.
Trong những cuộc khủng hoảng tài chính năm 1847, 1857 và 1866, chính quyền đã cho phép ngân hàng Anh quốc phát hành số lượng tiền vượt quá mức tối đa do đạo luật Peel ấn định.
Ngày 1/8/1914, ngân hàng này lại một lần nữa được phép phát hành quá mức tối đa ấn định. Đến năm 1923, ngân hàng Anh quốc được độc quyền phát hành tiền hoàn toàn. Lúc bấy giờ có khoảng 300 ngân hàng phát hành, nhưng ở vào địa vị thứ yếu so với Ngân hàng Anh quốc. Khi bắt đầu thế chiến thứ 1, 300 ngân hàng này rút xuống còn khoảng 30.
Với việc được độc quyền phát hành, Ngân hàng Anh đã trở thành nơi cung cấp tài chính cho các hoạt động của chính phủ hoàng gia và là nơi gửi tiền thuế của chính phủ. Một cách tự phát, Ngân hàng Anh tiến thêm bước nữa, làm đại lý cho chính phủ Anh trong các giao dịch với nước ngoài.
Từ năm 1854, Ngân hàng Anh bắt đầu trở thành trung tâm thanh toán của các ngân hàng, đưa ra các quy định về lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động các ngân hàng còn lại. Ngân hàng Anh trở thành thủ lĩnh của mọi ngân hàng.
Theo kinh nghiệm của nước Anh, trong cùng khoảng thời gian nói trên, nhiều nước lần lượt giao cho các ngân hàng độc quyền phát hành các quyền kiểm soát dự trữ vàng, kiểm soát tín dụng và thực hiện điều hòa thanh toán cho cả hệ thống ngân hàng trong nước. Đây là bước chuyển tiếp từ ngân hàng phát hành trở thành ngân hàng trung ương.
Hệ thống ngân hàng Mỹ
Ngân hàng thương mại đầu tiên ở nước Mỹ cũng được thiết kế trở thành ngân hàng trung ương đầu tiên. Ngân hàng Bắc Mỹ (Bank of North America) được Robert Morris lập ra vào mùa xuân 1781. Morris là một thương nhân giàu có tại Philadenphia và Nghị sĩ Quốc hội, rất có thế lực trong cuộc chiến giành độc lập của Hoa Kỳ. Bằng ảnh hưởng cá nhân, Morris nhanh chóng thuyết phục được Quốc hội thông qua điều lệ Ngân hàng Bắc Mỹ theo mô hình Ngân hàng Anh. Nước Mỹ có ngân hàng trung ương đầu tiên.
Nhưng một năm sau, vai trò chính trị của Morris sụt giảm nhanh chóng nên Ngân hàng Bắc Mỹ nhanh chóng chuyển sang hoạt động như một ngân hàng thương mại thuần túy. Đến năm 1783, các loại chứng khoán chính phủ, chiếm khoảng 5/8 nguồn vốn của ngân hàng, được bán cho các cá nhân và mọi khoản nợ của chính phủ với Ngân hàng Bắc Mỹ được thanh toán hết. Thử nghiệm ngân hàng trung ương đầu tiên tại Hoa Kỳ kết thúc.
Đến năm 1791, Alexander Hamilton (Theo Hitchcock, A. Hamilton là người thay mặt cho quyền lợi của gia tộc Rothschild) trình lên quốc hội phương án thành lập First Bank of the United States để giải quyết tình trạng “thiếu tiền”. Chính quyền liên bang nắm quyền sở hữu 1/5 ngân hàng trung ương này, 80% cổ phần còn lại, lẽ dĩ nhiên, thuộc về các đại gia tộc ngân hàng.
Ngân hàng mới sẽ có quyền phát hành tiền và đầu tư vào các khoản nợ công và tài trợ tín dụng giá rẻ cho các nhà công nghiệp. Chính quyền liên bang cũng trao cho ngân hàng quyền được lưu ký quĩ và tài sản của chính phủ. Thời gian hoạt động được qui định là 20 năm.
First Bank of the United States, BUS được vận hành theo đúng mô hình của Ngân hàng Bắc Mỹ. Thomas Willing, chủ tịch Ngân hàng Bắc Mỹ được mời giữ chức chủ tịch ngân hàng mới.
BUS nhanh chóng phát hành nhiều triệu đô-la tiền giấy và khoảng 2 triệu đôla tiền đúc. Tới năm 1796, BUS đã cho chính phủ vay một lượng lớn tiền, 8,2 triệu đô-la. Kết quả là chỉ số giá cả chung tăng gần 72%, từ 85 (1791) lên 146 (1796).
Theo sau hoạt động của BUS là làn sóng thành lập các ngân hàng thương mại. Trước khi Hiến pháp được công bố, nước Mỹ có 3 ngân hàng thương mại. Đến thời gian thành lập BUS, số ngân hàng thương mại là 4. Nhưng có tới 8 ngân hàng thương mại nhanh chóng được thành lập trong 2 năm 1791 và 1792, và thêm 10 ngân hàng nữa vào năm 1796.
Bản điều lệ thành lập ngân hàng đ...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Nghiên cứu hệ thống treo bán tích cực sử dụng trên ô tô du lịch Khoa học kỹ thuật 2
L Lịch sử hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng Luận văn Kinh tế 0
M Những cơ sở xác định và điều tiết tỷ giá trong lịch sử. liên hệ thực tế ở Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
T Mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị dưới góc độ của triết học duy vật về lịch sử Luận văn Sư phạm 2
N Nghiên cứu sử dụng hệ thống đất ngập nước nhân tạo để xử lý nước sông Tô Lịch cho mục đích sản xuất Luận văn Sư phạm 2
D Mối quan hệ kinh tế và giao lưu văn hoá Việt – Thái trong lịch sử Lịch sử Việt Nam 3
N Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống thông tin - thư viện đại học Mỹ và định hướng vận dụng một Lịch sử Thế giới 0
G Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đ Văn học dân gian 2
Y Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo về mối quan hệ giữa trời và người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam (q Kinh tế chính trị 0
C Quan hệ Malaysia - Singapore từ 1965 đến 2010. ThS. Lịch sử Lịch sử Thế giới 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top