daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Chuyên đề
CÁC CUỘC CẢI CÁCH, DUY TÂN TIÊU BIỂU Ở CHÂU Á
CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
Thời gian dự kiến 3 tiết:
A. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
1. Bối cảnh lịch sử
*) Khách quan
- Từ thế kỉ XV, một loạt các cuộc CMTS đã diễn ra tại các nước Âu Mĩ, hạn chế
hay thủ tiêu hoàn toàn chế độ PK, xác lập chế độ TBCN với cách sản
xuất tiến bộ, mở ra 1 thời đại mới trong LS nhân loại. Lần đầu tiên, một khối
lượng của cải vật chất lớn đã được tạo ra bởi sức sản xuất phi thường của
máy móc và một thể chế dân chủ tư sản được định hình, đem lại một trào lưu
ánh sáng mới sau hàng thế kỉ chìm đắm trong đêm trường trung cổ. Những
chuyển biến này không chỉ tác động tới các nước châu Âu mà còn ít nhiều ảnh
hưởng tới các quốc gia khác trong đó có các nước châu Á, làm chuyển biến tư
tưởng của nhiều nhà trí thức yêu nước, đưa tới một luồng gió cải cách, duy tân
nhằm đưa đất nước phát triển.
- Cuối TK XIX các nước TB chuyển từ giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh sang
giai đoạn ĐQCN => nhu cầu về thị trường, thuộc địa trở lên cấp thiết.
*) Chủ quan
- Trong khi đó châu Á từ trước thời kì phát kiến địa lí đã hiện lên trong trí tưởng

tượng của các quý tộc, thương nhân châu Âu như là “thiên đường giàu có, lắm
vàng nhiều bạc, giàu hương liệu, đầy hấp dẫn, quyến rũ, huyền bí”. Và thực tế,
với việc tìm ra các con đường mới tới phương Đông và các châu lục khác, đã
đem về cho các nước phương Tây sự giàu có nhờ vàng, hàng hóa và nô lệ.
Thêm vào đó, khi thương mại TG được mở rộng, các châu lục được nối liền, vị
trí chiến lược của châu Á càng đóng vai trò quan trọng, khiến châu Á càng trở
nên hấp dẫn. Giữa lúc đó, chế độ phong kiến ở các nước châu Á đang lâm vào
cuộc khủng hoảng toàn diện và trầm trọng trên tất cả các mặt KT, CT, XH.


=> Châu Á sớm trở thành đối tượng xâm lược của các nước thực dân phương
Tây.
=> Thách thức lịch sử đó đã đặt các quốc gia châu Á trước 2 sự lựa chọn: hoặc
là tiếp tục duy trì CĐPK trì trệ, bảo thủ. hay là tiến hành cải cách, duy tân để
phát triển đất nước, tăng khả năng tự cường của dân tộc.
=> sự phân hóa trong cách lựa chọn con đường giữa các quốc gia: Trong khi
TQ, VN, … lựa chọn con đường thứ nhất thì Nhật Bản và Xiêm đã lựa chọn con
đường thứ hai. Kết quả là, TQ, VN bị biến thành thuộc địa còn Nhật Bản và
Xiêm đã thoát khỏi nanh vuốt của các nước Phương Tây.
- Sau khi hoàn thành xâm chiến thuộc địa, các nước đế quốc đã tiến hành khai
thác thuộc địa làm chuyển biến cơ cấu kinh tế xã hội ở các nước châu Á => tạo
ra những điều kiện bên trong để các nước châu Á tiếp tục tiến hành cải cách duy
tân để giải phóng dân tộc.
2. Các cuộc cải cách, duy tân tiêu biểu.
2.1Cuộc duy tân Minh Trị
2.1.1 Nguyên nhân
*) Đầu thế kỉ XIX chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản đứng đầu là Tướng quân
(Sô- gun) làm vào khủng hoảng suy yếu.
+ Về kinh tế:
- Nông nghiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Địa chủ bóc
lột nhân dân lao động rất nặng nề. Tình trạng mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra.
- Công nghiệp :ở các thành thị, hải cảng, kinh tế hàng hoá phát triển, công
trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều.
- Những mầm mống kinh tế tư sản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng.
+ Về xã hội:
- Tầng lớp tư sản thương nghiệp ra đời từ lâu, tầng lớp tư sản công nghiệp hình
thành và ngày càng giầu có.
- Các nhà công thương lại không có quyền lực về chính trị.


- Giai cấp tư sản vẫn còn yếu, không đủ sức xoá bỏ chế độ phong kiến, nông
dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không
chỉ bị phong kiến khống chế mà còn bị các nhà buôn và bọn cho vay lãi bóc lột.
+ Về chính trị:
- Đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản vẫn là quốc gia phong kiến. Nhà vua được tôn
là Thiên hoàng, có vị tối cao nhưng quyền hành chủ yếu thuộc về Tướng quân.
*) Nguy cơ xâm lược của ĐQ phương Tây
- Giữa lúc mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, chế độ Mạc Phủ
khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước tư bản phương Tây, trước tiên là Mĩ,
dùng áp lực quân sự đòi Nhật Bản phải “mở cửa” do vị trí địa lý của Nhật Bản trong
khu vực, là cấu nối quan trọng trong tuyến đường vận chuyển từ châu Âu qua châu Á bằng
đường biển, đặc biệt lại cách không xa Trung Quốc – một nước lớn, đông dân và giàu có về
tài nguyên nên Nhật Bản nhanh chóng bị biến thành bàn đạp chiến lược, một căn cứ quân sự
quan trọng để từ đây có thể xâm nhập vào Trung Hoa rộng lớn và các nước phía nam.
- Tháng 5 năm 1853, tàu chiến Mỹ đổ bộ vào Edo, uy hiếp Mạc phủ. Tổng thống Mỹ yêu cầu
Nhật Bản mở cửa kèm theo lời đe dọa nếu cần sẽ quyết chiến một trận để phân thắng bại.
Chính quyền Mạc Phủ tỏ ra hết sức lứng túng và phải buộc lòng hỏi ý kiến của Thiên hoàng
và các chư hầu. Hành động chứng tỏ đã đến lúc các Shogun cảm giác địa vị thống trị của
mình không còn vững chắc nữa. Thái độ của các Thiên hoàng và các Daimyo là việc chống
lại việc thông thương vớ Mỹ hay bất cứ nước nào khác. Trong lúc đó nội bộ Mạc phủ cũng
phân chia thành nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng trước sức mạnh của Mỹ, Mạc phủ buộc phải
nhược bộ và ký với Mỹ hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên(31/3/1854). Theo hiệp ước này, Nhật
Bản phải mở các hải cảng Simodo và Hakoddate cho Mỹ vào buôn bán và Mỹ được đặt lãnh
sự quán tại Simda. Không dừng lại ở đó Nhật phải ký một loạt các hiệp ước Hà
Lan(18/8/1858), Nga(19/8), Pháp(9/10). Những hiệp ước bất bình đẳng trên đã chấm dứt gần
200 năm đóng của biệt lập của chính quyền Tokugawa.
- Những hiệp ước trên đã xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi dân tộc, đưa Nhật Bản bước vào
quan hệ quốc tế không phải với tư cách, vị thế của một đất nước hoàn toàn độc lập, bình đẳng
mà lệ thuộc vào các nước phương Tây. Tuy nhiên những hiệp ươc trên giúp Nhật Bản tránh
được nguy cơ phải đối đầu trực tiếp trong khi tương quan lực lượng không hề có lợi cho Nhật
Bản.


=> Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng
trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hay tiếp tục con đường trì trệ, bảo thủ để
các nước đế quốc xâu xé; hay canh tân, cải cách xoá bỏ chế độ phong kiến, đưa
Nhật Bản hoà nhập với nền kinh tế phương Tây.
*) Những hiệp ước bất bình mà Mạc phủ kí kết với nước ngoài làm cho tầng lớp
xã hội phản ứng mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh chống Sô gun nổ ra sôi nổi vào
những năm 60 của thế kỉ XX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ. Tháng 01/1868
Sô-gun bị lật đổ. Thiên hoàng Minh Trị (Meiji) trở lại nắm quyền và thực
hiện một loạt cải cách.
2.1.2 Nội dung cải cách Minh Trị:
- Tháng 1-1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị (May-gi) đã thực hiện
một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến
lạc hâu.
*Về chính trị :
- Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện
bình đẳng ban bố quyền tự do.
- Ban hành Hiến pháp 1889.
*Về kinh tế:
- Thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, xoá bỏ sự độc quyền ruộng đất của
giai cấp phong kiến.
- Tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, phục vụ giao thông liên lạc.
*Về quân sự:
- Được tổ chức huấn luyện theo kiểu phương Tây.
- Chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh.
- Chú trọng đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí đạn dược
*Về giáo dục:


- Thi hành chính sách giáo dục bắt buộc.
- Chú trọng nội dung khoa học- kỹ thuật trong chương trình giảng dạy,.
- Cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây…
2.1.3 Kết quả, Tính chất, ý nghĩa:
- Cải cách Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản.
- Nhật thoát khỏi số phận bị các nước tư bản phương Tây xâm lược
- Mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật.
- Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX (sau chiến tranh Trung - Nhật (1894-1895),
kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ.
- Quá trình tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp với ngân hàng đã đưa
đến sự ra đời những công ty độc quyền, Mít-xưi, Mit-su-bi-si chi phối đời sống
kinh tế, chính trị Nhật Bản.
- Đầu thế kỉ XX, Nhật thi hành chính sách xâm lược và bành trướng:
+ Năm 1874 Nhật xâm lược Đài Loan.
+ Năm 1894 – 1895 Nhật gây chiến với Trung Quốc để tranh giành Triều
Tiên, uy hiếp Bắc Kinh, chiếm cửa biển Lữ Thuận, nhà Thanh phải nhượng Đài
Loan và Liêu Đông cho Nhật
+ Năm 1904-1905 Nhật gây chiến với Nga buộc Nga phải nhường cửa
biển Lữ Thuận, đảo Xa-kha-lin, thừa nhận Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên.
+ Năm 1914, Nhật dùng vũ lực mở rộng ảnh hưởng ở Trung Quốc và
chiếm Sơn Đông. Nhật trở thành đế quốc hung phát triển nhất châu Á.
- Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự bần cùng hoá của quần
chúng nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa đế quốc Nhật được gọi là “Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân
phiệt, hiếu chiến”
2.2 Cuộc cải cách ở Xiêm (1861 – 1910)
2.2.1 Bối cảnh lịch sử:
- Đến những năm đầu thế kỷ XIX, Xiêm cũng giống như nhiều quốc gia châu Á đứng trước
nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây đi đầu là thực dân Anh.


+ Tháng 10 năm 1822, bản hiệp ước Xiêm – Anh được ký kết quy định: Tàu Anh phải để cho
chính quyền Xiêm xem xét, phải dỡ lên bờ các loại vũ khí và đại bác trước khi vào cửa sông
Chao Phraya. Còn phía Xiêm cam đoan sẽ không tăng mức thuế quan và tạo điều kiện cho
thuận lợi cho sự buôn bán của Anh. Ngày 20 tháng 6 năm 1826 hiệp ước hữu nghĩ và thương
mại giữa Xiêm và Anh được ký kết. Theo hiệp ước này , hai bên thỏa thuận về quyền cai
quản trên các vùng đất Malaca, đồng thời cũng qui định một số điều kiện thuận lợi cho việc
buôn bán của Anh tại Xiêm. Đến năm 1855 với việc ký hiệp ước thân thiện và buôn bán với
Anh , vua Rama IV đã mở cửa đất nước cho ảnh hưởng của châu Âu xâm nhập vào. Đây
chính là hiệp ước bất bình đẳng thứ hai trong lịch sử ngoại giao của Xiêm với các cường quốc
châu Âu.
+ Mặc dù Xiêm đi từ nhượng bộ này đên nhược bộ khác nhưng tư bản phương tây, mạnh mẽ
nhất là Anh và Pháp không có ý định từ bỏ âm mưu mở rộng ảnh hưởng của mình, ngày càng
gia tăng sức ép đối với chủ quyền của Xiêm. Năm 1893, hiệp ước Pháp – Xiêm được ký kết,
theo đó phía tây khu vực sông Mekong 25 km được coi là khu phi quân sự.
Việc ký kết các hiệp ước trên đã gây ra những hậu quả tai hại đối vơi Xiêm. Nó là giai đoạn
đàu biến Xiêm trở thành nước phụ thuộc nặng nề vào các cương quốc lớn, nhất là Anh và
Pháp. Với các hiệp ước đó Xiêm trở thành nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu rẻ mạt và thị
trường tiêu thụ hàng hóa cho các nước tư bản và ngược lại các nước thực dân phương Tây
bán đắt các mặt hàng công nghiệp và người dân Xiêm bị bóc lột nặng nề vì tình chất buôn
bán không ngang giá và mang nặng tính bóc lột. Nước Xiêm đang đứng trước nguy cơ mất
độc lập nghiêm trọng.
=> Đối với Xiêm lúc này, vấn đề bảo vệ nền độc lập được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết .
Đó là một thách thức to lớn cho cả dân tộc Xiêm, nó thôi thúc Xiêm phải chọn cho mình con
đường đi thích hợp để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh lịch sử khó khăn đó, việc
cai trị theo chính sách cũ, lạc hậu, thủ cựu, đóng cửa không giao lưu với bên ngoài là thất
sách đẩy nhanh Xiêm trở thành thuộc địa. Ngau khi mới lên ngôi, vua Rama V đã nhận thức:
“ Nếu nước Xiêm muốn duy trì được nền độc lập của mình thì dù muốn hay không nó phải
chấn chính đất nước theo các quan niệm đang chiếm ưu thế ở châu Âu, hay ít nhất cũng phải
tỏ ra đang làm như thế”
- Những biến chuyển trong lòng xã hội Xiêm dưới tác động của những hiệp ước kí kết với các
nước phương Tây
*) Về kinh tế:
Việc ký kết các hiệp ước bất bình đẳng đã buộc chính quyền Xiêm phải nở cửa buôn bán với
nước ngoài. Chính sách mở cửa đó đã tác động trước tiên đến kinh tế, nền kinh tế đóng kín


của Xiêm bắt đầu xuất hiện những mầm mống của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trước tiên trong lĩnh vực nông nghiệp : sự thay đổi thể hiện ở việc chuyển dịch từ một nền
sản xuất mang tính chất tự cung, tự cấp sang một nền sản xuất hàng hóa để xuất khẩu. Tuy
nhiên trái với sự mở rộng trong nông nghiệp, sự phát triển thủ công nghiệp ở Xiêm lại bị kìm
hãm, cản trở bởi chế độ phong kiến.
Thủ công nghiệp tập trung ở một vài thành phố và tự liên kết với nhau thành một nghành
chuyên môn hẹp trong các công xưởng . Đứng đầu mỗi công xưởng là là một vị quan do nhà
nước chỉ định. Đây là một hiện tượng điển hình của nhà nước phong kiến, nó kìm hãm, rằng
buộc người thợ thủ công với nhà nước, hạn chế thậm chí tiêu diệt tài năng, sự sáng tạo của
người thợ.
Những hiệp ước được ký kết giữa Xiêm và các nước phương Tây một mặt đẩy Xiêm đứng
trước nguy cơ mất nền độc lập dân tộc, mặt khác nó lại mở ra một giai đoạn phát triển mới
cho nghành thương mại của Xiêm. Ngoại thương trở thành nguồn thu đáng kể của nhà nước
“Trong nửa đầu thế kỷ XX, tổng buôn bán hàng năm trong xuất khẩu của Xiêm có lúc tới 5,5
triệu baih, còn nhập khẩu là 4,3 triệu bath”
Những thay đổi trên đây đã phá vỡ nền kinh tế tư nhiên, tự cung, tự cấp, thay vào đó yếu tố
của nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, thể hiện rõ trong lĩnh vực nông nghiệp và thương
nghiệp.Tuy nhiên sự xuất hiện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mới chỉ tồn tại ở dạng
mầm mông, quan hệ phong kiến vẫn tồn tại vững chác và tạo ra rất nhiều rào cản, kìm hãm sự
phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản muốn phát triển được phải vượt
qua tất cả nhưng rào cản đó.
* Về xã hội:
Cùng với nhân tố khách quan dẫn đến yêu cầu phải cải cách thì một nhân tố không kém phần
quan trọng đó là lực lượng tham gia vào quá trình cải cách. Sau khi lên ngôi, để từng bước
dọn đường cho công cuộc cải cách của mình, Rama V đã tập hợp quanh mình một lực lượng
đông đảo ủng hộ, tán thành dự định cải cách của ông, trong đó căn bản là các hoàng thân, con
em quý tộc. Họ là những người có tư tưởng cấp tiến, từng nhiều lần đi sang châu Âu và các
nước xung quanh Xiêm, họ nhận thức được sự tụt hậu cảu Xiêm và tán thành cải cách.
=> đến giữa thế kỷ XIX Xiêm đứng trước yêu cầu khách quan và những tiền đề trong nước
đã tạo điều kiện cho nhà vua Rama V tiến hành cải cách. Cũng cần nhận thấy động lực để
tiến hành cải cách ở Xiêm chủ yếu xuất phát từ yêu cầu khách quan là nền độc lập bị đe dọa
nghiêm trọng, nó đã thúc đẩy các điều kiện bên trong tuy chưa chín muồi nhưng có cơ sở để
thay đổi.


2.2.2 Nội dung cải cách
-) Kinh tế:
+ Nông nghiệp: để tăng nhanh lượng gạo xuất khẩu nhà nước giảm nhẹ thuế
ruộng, xóa bỏ chế độ lao dịch.
+ Công thương nghiệp: khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh, xây dựng nhà
máy, mở hiệu buôn, ngân hàng
- Chính trị:
+ Cải cách theo khuôn mẫu Phương Tây .
+ Đứng đầu nhà nước vẫn là vua.
+ Giúp việc có hội đồng nhà nước (nghị viện) .
+ Chính phủ có 12 bộ trưởng.
- Quân đội, tòa án, trường học được cải cách theo khuôn mẫu phương Tây.
- Về xã hội: xóa bỏ chế độ nô lệ , giải phóng người lao động.
- Đối ngoại:
+ Thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo.
+ Lợi dụng vị trí nước đệm .
+ Lợi dụng mâu thuẫn giữa 2 thế lực Anh - Pháp đã lựa chiều có lợi để giữ chủ
quyền đất nước.
*Tính chất:
+Thái Lan phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa và giữ được chủ quyền độc
lập.
+Tính chất một cuộc cách mạng tư sản không triệt để.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top