Download miễn phí Đề tài Nguồn gốc lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay





Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là toàn bộ quá trình sản xuất đến tiêu dùng gắn liền với thị trường. Lợi nhuận là một mục đích của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường ở nước ta cũng nhằm mục đích lợi nhuận nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Xuất phát từ đặc điểm của nước ta là nước xã hội chủ nghĩa nên việc theo đuổi lợi nhuận phải đảm bảo hai nhiệm vụ:

- Baỏ đảm hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi.

- Kết hợp giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội.

Xét cho đến cùng kinh tế thị trường cũng như các hình thức tổ chức kinh tế khác đều nhằm mục đích sản xuất đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu củ con người, tức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Điều đó thể hiện bởi lợi nhuận thu về cao. Kinh tế thị trường tạo ra các thị trường là nơi gặp gỡ giữa người bán và người mua để xác định 3 yếu tố của sản xuất, qua đó nâng cao chức năng động của nền kinh tế.

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


khác để đầu tư và tất nhiên ngành Da sẽ thích hợp nhất và họ sẽ chuyển một tư bản ở ngành cơ khí sang ngành da. Kết qủa là số lượng sản phẩm ở ngành Da tăng lên và buộc ngành Da phải giảm giá thành sản phẩm xuống; trái lại ở ngành cơ khí số lượng hàng hoá sẽ ít đi và sự thay đổi tương quan giữa cung và cầu sẽ giúp cho các xí nghiệp nâng cao được giá của họ và tỷ suất lợi nhuận cũng tăng lên.
Và tình trạng này sẽ tiếp diễn đến khi tỷ suất lợi nhuận của 3 ngành xấp xỉ bằng nhau. Điều đó xảy ra khi giá bán của 3 ngành đều bán theo giá 120 đơn vị. Lúc đó lợi nhuận bình quân của mỗi ngành sẽ là 20 đơn vị.
Việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và việc biến giá trị thành giá cả sản xuất càng che dấu quan hệ bóc lột, che dấu nguồn gốc làm giàu thực sự của bọn tư bản. Thực ra sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân có nghĩa là phân bố lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản của các ngành khác nhau. Nhà tư bản thuộc ngành có cấu tạo hữu cơ cao, chiếm đoạt được một phần giá trị thặng dư do các ngành có cấu tạo hữu cơ thấp sáng tạo ra. Bởi vậy công nhân không những bị nhà tư bản thuê mình bóc lột mà còn bị toàn bộ giai cấp các nhà tư bản bóc lột. Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đều quan tâm đến việc nâng cao mức độ bóc lột công nhân, vì điều đó làm tăng tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận.
3.1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận.
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng : lợi nhuận là lượng dôi ra ngoài doanh thu so với chi phí. Trong đó doanh thu của mỗi hãng là số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hoá hay dịch vụ trong một giai đoạn nhất định, ví dụ : một năm. Chi phí của hãng là những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hay dịch vụ trong thời kỳ đó.
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào thấp nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi ra không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trển thị trường.
Ngày nay để thu được nhiều lợi nhuận, nhà tư bản sẽ không đầu tư nhiều vốn để thuê lao động mà đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại, tự động khi mà lợi nhuận thu được phải tương xứng với lợi nhuận bình quân xã hội, mặc dù giá trị được tao ra trong đó có giá trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá trị hàng hoá. Vì vậy lợi nhuận nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật, tự động hoá là do chuyển hoá giá trị thặng dư được tạo ra trong xã hội dưới hình thức giá trị thặng dư siêu ngạch được san đi bù lại giữa các nhà tư bản.
Việc áp dụng rộng rãi máy móc hiện đại, tự động trong điều kiện ngày nay đã khiến không ít người đặt ra câu hỏi rằng : “Phải chăng trong các dây chuyền sản xuất tự động không còn bóc lột thặng dư và chính máy móc sáng tạo ra lợi nhuận ?”.
3.2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận.
Trước hết ta cần khẳng định rằng máy móc và hệ thống máy móc dù có tinh vi hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người. Và con người không bao giờ chế tạo được một cỗ máy lý tưởng, một động cơ vĩnh cửu. Trong dây chuyền sản xuất tự động, giá trị thặng dư được tạo ra không chỉ là sản phẩm của lao động quá khứ mà vẫn cần tới lao động hiện tại. Mác viết rằng “lao động biểu hiện không phải chủ yếu với tư cách là một loại lao động trong đó con người ngày càng đứng sang bên cạnh với chức năng giám sát, điều khiển, sáng tạo mà máy móc không làm nổi”.
Lợi nhuận siêu ngạch mà các nhà tư bản thu được khi áp dụng máy móc hiện đại so với các nhà tư bản khác chẳng qua là sự phân phối lại giá trị thặng dư sẵn có trên phạm vi toàn xã hội. Do áp dụng máy móc hiện đại nên ở đây năng suất lao động cao hơn thì giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn. Song trên thị trường giá bán hàng hóa cùng loại vẫn theo giá trị thị trường nên khi đó các nhà tư bản sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Thực tế, trên quy mô thị trường thế giới, các nhà tư bản phát triển sản xuất bằng máy móc hiện đại và đem bán hàng hóa tại các nước đang và chậm phát triển và thu được những khoản lợi nhuận kếch xù. Lợi nhuận siêu ngạch mà một nhà tư bản thu được là do phần lợi nhuận của các nhà tư bản khác mất đi. Nếu mọi cơ sở sản xuất đều trang bị máy móc hiện đại hơn và thu được lợi nhuận siêu ngạch thì lập tức dẫn đến sự cạnh tranh để rồi sớm hay muộn sẽ làm triệt tiêu lợi thế cá biệt, triệt tiêu lợi nhuận siêu ngạch.
Tóm lại nguồn gốc của lợi nhuận cũng như lợi nhuận siêu ngạch là từ giá trị thặng dư muốn lao động không công do công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, đúng như Mác đã nhận định và chứng minh.
Các hình thức của lợi nhuận.
Như ta đã biết giá trị thặng dư lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động thặng dư. Giá trị thặng dư là phần giá trị mà nhà tư bản bóc lột không công của người công nhân, còn lợi nhuận là số tiền thu được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số tiền bỏ vào sản xuất. Có thể nói, chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất, chứng minh công htức mâu thuẫn cuả tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mác các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để diễn đạt mà chỉ biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập , tiền lương. Chỉ đến Mác, ông mới chứng minh xây dựng lý thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại của Mác, mà như Lênin nói đó là “hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng Mác không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư, càng không phải là người làm ra nó, chính ngươi tìm ra giá trị thặng dư là nhà tư bản và người lao động thặng dư là người công nhân. Giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che dấu bởi lợi nhuận và nó tồn tại ở các hình thức sau:
4.1. Lợi nhuận công nghiệp.
Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm khôn gvà phoần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân được chia làm 2 phần : một phần làm ra giá trị tương đương với số tiền lương của anh ta và làm ra giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản công nghiệp luôn tìm cách tăng phần thời gian lao động thặng dư như tăng giờ làm, tăng năng suất lao động ( giảm thời gian lao động tất yếu ). Thời gian lao động thặng dư càng nhiều thì càng thuộc về nhà tư bản và sẽ thu được lợi nhuận càng cao. Như vậy, lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất.
4.2. Lợi nhuận thương nghiệp.
Trong lưu thông, trao đổi không tao ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá được bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp thực hiện khâu tiêu thụ cho tư bản công nghiệp. Vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp chiếm được. Về thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư trong lúc họ khao khát, thèm muốn nó là bởi vì : nhà tư bản thương nghiệp rất am hiểu thị trường, khách hàng, do đó, giúp cho hàng hóa bán đi nhanh hơn, tốc độ chu chuyển tư bản nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để sản xuất. Do có vai trò như vậy, nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp chính là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Điều đó, không có ý nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và giá bán đúng bằng giá trị.
4.3. Lợi tức cho vay.
Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hay không có vốn nên họ phải đi vay để có làm vốn đem vào sản xuất. Một số nhà tư bản có tiền nhưng chưa đến chu kỳ sử dụng hay chưa sử dụng nên họ cho vay và nhận được một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư bản đi vay, gọi là lợi tức.
Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với số tiền họ đã vay. Lợi tức cao hay thấp còn tuỳ từng trường hợp vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết, hoàn cảnh lịch sử, sự thoả thuận giữa các tư bản, đối với tư bản thì tiền không thể để chết trong các két sắt mà nó đẻ ra liên tục.
Lợi nhuận ngân hàng.
Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở chỗ tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động ngoài nguồn vốn nhàn rỗi còn các chứng khoánNgân hàng tham gia vào sản xuất với tư bản và cả hai bên chi phí liên quan đến chia nhau lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà ngân hàng chung vốn với nhà tư bản tham gia sản xuất. Ngân h...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
S Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự phát triển Luận văn Kinh tế 0
M Nguồn gốc, bản chất, vai trò của lợi nhuận và liên hệ thực tế ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 2
C Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường Luận văn Kinh tế 2
K [Free] Bản chất,nguồn gốc của lợi nhuận và mâu thuẫn của nó trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ Luận văn Kinh tế 0
D [Free] Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận Tài liệu chưa phân loại 0
R Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận ở trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa Luận văn Kinh tế 3
D Nguồn gốc, bản chất lợi nhuận là gì và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay Tài liệu chưa phân loại 0
D Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Tài liệu chưa phân loại 0
2 Nguồn gốc, bản chất lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay Tài liệu chưa phân loại 2
A Đề án Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top