Download miễn phí Đề tài Khu chế xuất: Bài học kinh nghiệmtừ một số nước và chính sách phát triển của Việt Nam





Quay trở lại xem xét chính sách nhà nước ta nếu như đem so sánh các điều khoản VN vói các nước khác ta thaáy VN rất là ưu đãi cho các nhà đầu tư. Chúng hoàn thành quy chế KCX với những điều khoản thể hiện rõ thiện chí và mong muốn từ phía Việt Nam là tạo một môi trường pháp lý thuận tiện, có những chính sách ưu tiên hợp lý, thoả đáng (xem điều 34,35,39, chương VI- Xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ trong quy chế KCX). Một vấn đề luôn được các nhà đầu tư quan tâm đó là chính sách về thuế. Một nguyên tắc bất di bất dịch là khi hoạt động có lãi anh phải đóng góp thuế cho nước sở tại theo pháp luật quy định.

Theo điều 51 chương VIII về chế độ kế toán, thống kê và các vấn đề tài chính đã quy định rõ tỉ lệ nộp thuế lợi tức, thuế thu nhập doanh nghiệp: Đối với xí nghiệp sản xuất nộp 10% lợi nhuận, 15% lợi nhuận là của xí nghiệp dịch vụ, chế độ miễn thuế: xí nghiệp sản xuất miễn 4 năm kể từ năm xí nghiệp bắt đầu kinh doanh có lãi với xí nghiệp dịch vụ là 2 năm . Với những quy định này phần nào KCX VN đã hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Còn về quyền lợi của người lao động trong KCX cũng được quy định rõ tại điều 30, 31, 32, 33, chương V: Quan hệ lao động trong KCX của quy chế này. Với những quy định đó đã đảm bảo lợi ích mà người lao động mong đợi góp phần kích thích người lao động làm việc có hiệu quả hơn.

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


xem xét các ảnh hưởng hiện nay và để biến cải dần dần các KCX. Các phát hiện ở đây có thể thích hợp với phát hiện nhiều nước đang phát triển để thiết kế các biẹen pháp, chính sách nhằm thúc đẩy vai trò chất xúc tác của các KCX trong phát triển công nghiệp toàn diện. Các vấn đề cụ thẻ và các nhiệm vụ trước mắt của Nam Triều Tiên có thể phù hợp tức khắc với chỉ moọt số ít nước đang phát triển, song rõ ràng là KCXđều phải được quan niệm lại, với ý nghĩa là chúng luôn luôn phải vận động thích nghi với tình thế. KCX không phải là cái gì tĩnh tại không phải đầu tư "một lần cho mãi mãi" mà là một cơ chế động cần thiết phải phản ứng nhanh nhạy với các yêu cầu bên ngoài đang ngày càng tăng.
Nam Triều Tiên từ nột nước nông nghiệp, bị bần cùng hoá do chiến tranh năm 1950 đã phát triển thành một trong những nước năng động nhất về nặt kinh tế trên thế giới với mức tăng trưởng bình quân hàng năm trong suốt thời gian dài là 6,6% GNP theo đầu người (1965 - 1984), năm 1987 đạt 2900USD/năm, là nước có vị trí dẫn đầu vềthu nhập trong số các nước đang phát triển ở châu á. Tại sao Hàn Quốc lại thành công như vậy? Điều này lý giải rằng do Han Quốc đã phát triển kinh tế dựa trên chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu> Theo đuổi chiến lược kinh tế hướng ngoại này từ những năm 60 xuất khẩu đã trở thành một động lực phát triển công nghiệp của Nam Triều Tiên.Tuy nhiên, phát triển chính sách này Nhà nước vẫn luôn luôn có những can thiệp quan trọng trong các vấn đề toỏ chức và chỉ đạo phát triển kinh tế. Nam Triều Tiên chưa hề bao giờ tôn trọng quan điểm để thị trường tự do phát triển "tự nó" nhưng Nhà nước lại rất coi trọng các tín hiệu thị trường, sử dungj các tín hiiêụ thị trường để hoàn thành chính sách kinh tế của mình.
Từ đó chế độ KHH chỉ đạo trung hạn (" có nghĩa KHH hành chính") đã cực kì quan trọng đối với thành tựu của đất nước hôm nay. Trung tâm của hệ thống điểu khiển fức tạp này là chế độ tài chính, chế độ tài chính được thiết lập theo chỉ định và được sử dụng một cách hệ thóng như là công cụ phát triển công nghiệp cố mục tiêu. Ngoài ra cần kể đến một nhân tố quan trọng khác giải thích cho thành công kinh tế của nước này. Đó là hình thức quan hệ qua lại có định chế giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Tuy nhiên, xiết chặt công cụ tài chính đối với công nghiệp chỉ là một trong những hướng chính của chính sách công nghiệp. Nam Triều Tiên còn có các biện pháp khác như kích thích về thuế ( miễn giảm thuế và trợ giúp cho những trường hợp khấu hao nhanh miễn giảm thuế quan hàng nhập khẩu cho nhu cầu sản xuất xuất khẩu) các biện pháp bảo hộ (hạn chế số lượng nhập khẩu, cấm nhập khẩu đối với hàng hoá trong nước sản xuất được), đồng thời với biện pháp đầu tư trực tiếp của chính phủ vào các TSCĐCN và các KCX. Phần lớn các hướng kích thích này nhằm mục tiêu đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu. Từ đó thấy rằng ngay từ những năm đầu 1970(có nghĩa thời điểm KCX bắt đầu thành lập), Nam Triều Tiên đã thực sự bước vào chính sách khuyến khích xuất khẩu mạnh mẽ. Nói cách khác, KCX không được coi là người lính tiên phong đi đầu trong chiến lược xuất khẩu, nó chỉ được thành lập như một đội ngũ bổ sung và tăng cường cho hướng đích xuất khẩu của nền kinh tế. Điều này khác xa với nhiều nước khác mà trong đó KCX được hình tượng như một điểm nút khởi sự những biến đổi về sản xuất xuất khẩu và do đó thường ít thành công.
Chính vì lẽ đó mà không có một chính sách ưu tiên hay sự lưu ý đặc biệt nào về việc đầu tư nước ngoài vào KCX, việc áp dụng đầu tư vào KCX như vào các khu vực khác chúng đều được khuyến khích nếu là ngành kiếm được nhiều ngoại tệ, quy trình sản xuất thu hút nhiều lao động và sử dụng công nghệ hiện đại.
Vậy thì câu hỏi đặt ra là KCX tại Nam Triều Tiên có những đặc điểm gì khác biệt. Không có gì quá khác biệt cả, các KCX tại Nam Triều Tiên chỉ có nhiệm vụ chính là nêu một tấm gương về các thuận lợi dễ dàng đáp ứng cho các xí nghiệp đóng tại đó có các ưu điểm về miễn thuế nhập khẩu đầu vào cho các mặt hàng xuất khẩu. Điều khác biệt thứ hai ở KCX là về thủ tục hành chính cần thiết cho vận hành các xí nghiệp đóng tại đây đều được giải quyết dễ dàng nhanh chóng do chính quyền KCX thực hiện. Sự tồn tại của các cơ quan đầu tư một cửa này tránh cho các nhà đầu tư nước ngoài phải "dạo một vòng" gõ cửa nhiều cục, vụ ở trung ương hay cơ sở, ty ở các uỷ ban địa phương. Đồng thời KCX ở đây cũng đóng vai trò khu vực quá cảnh rất thích hợp cho đầu tư nước ngoài khi có những thay đổi về luật lệ.
Nét nổi bật nhất ở các KCX Nam Triều Tiên là nó đóng vai trò tích cực làm cầu nối giữa trong nước và ngoài nước. Và đây là bài học quý mà nhiều nước chưa làm được. Một yếu tố nữa cũng quyết định đến sự thành công của KCX Nam Triều Tiên là mối liên hệ giữa các KCX với nền kinh tế trong nước biểu hiện là sử dụng nhân lực trong nước và tổ chức các hợp đồng gia công với các xí nghiệp trong nước. Có thể nói đây là hướng sáng tạo riêng của Nam Triều Tiên cho dù theo quan niệm là KCX có đặc tính tách biệt, cô lập so với nội địa (đặc điểm trong nước). Một điểm khác biệt nữa đối với các KCX tại Nam Triều Tiên là cơ cấu nghành nghề không đơn điệu mà rất đa dạng:
Bảng I: Cơ cấu ngành nghề ở KCX (3 kcx & cơ hội kinh doanh với nước ngoài, UB kế hoạch Nhà nước - Trung tâm thông tin, Hà Nội 1992, tr.119
)
Ngầnh
Số xí nghiệp
Đầu tư (1000USD)
Khu Masan
Khu iri
Cộng
%
Khu Masan
Khu Iri
Cộng
%
Điện và Điện tử
Kim loại
Cơ khí chính xác
Dệt và may
Máy móc
Giày dép
Phi kim loại
Da
Gia công đá
Khác
Cộng
23
16
8
8
4
5
5
-
-
8
77
1
1
-
8
-
-
4
-
3
1
18
24
17
8
16
4
5
9
-
3
9
95
25,3
17,9
8,4
16,8
4,2
5,3
9,5
-
3,2
9,5
100
76.107
22.460
13.840
5.424
2.039
6.543
1.319
-
-
4.688
132.440
1.384
3501
-
9.184
-
-
-
2270
908
277
17.475
77.492
25.981
13.840
14.607
2.039
6543
1319
2270
908
4915
149.91
55,7
17,3
9,2
9,7
1,4
4,4
0,9
1,5
0,6
3,3
100
Nghiên cứu về NTT thấy rằng thành công của các KCX phần nào soi rọi vai trò to lớn của Chính phủ Hàn Quốc đã đề ra phương hướng đúng đắn và đã chỉ đạo để triển khai nó trong điều kiện thực tế cuả đất nước. Song thực chất không chỉ dừng ở đó mà NTT đã sớm nhận ra xu hướng biến động của thế giới và hướng tới phát triển khu vực kinh tế hiện đại sản xuất sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao ,trình độ của công nhân ngày một nâng cao. Vì thế trong tương lai KCX sẽ có những biến đổi nhất định cho phù hợp với tình hình trong nước, thế giới.
2.Đặc khu kinh tế thẩm Khuyến - Trung Quốc
Trung Quốc có một số đặc khu kinh tế lớn trong đó phải kể đến Thẩm Quyến, xây dựng đặc khu này với mục đích là đưa Thẩm Quyến thành đặc khu kinh tế toàn diện có công nghiệp phát triển đồng thời với nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt nhằm đưa Thẩm Quyến trở thành một khu vực phồn vinh kinh tế, tiến bộ về chính trị văn minh về xã hội. Với những mục tiêu mang hướng chiến lược đó nó được triển khai cụ thể là:
Phải sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài bởi lẽ khu vực này tập trung vốn rất lớn (1,7 tỷ USD khoảng 25% vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc)
Hoàn thành cơ cấu ngành và kết cấu sản phẩm nhằm phát triển cơ cấu nền kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ.
Du nhập các thiết bị tiên tiến nhằm thu hút kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý nước ngoài.
Tăng cường xuất khẩu, hướng ra ngoài là mục tiêu của đặc khu kinh tế. Tuy vẫn kết hợp giữa "hướng ra ngoài" và "hướng vào trong" để "mở cửa " nền kinh tế.
Trải qua năm giai đoạn từ khi xây dựng Đặc khu (1980 - 1985), hình thành đặc khu (1980-2000) đến giai đoạn tháng 3 từ 2000 trở đi là giai đoạn nâng cao và hoàn thiện đặc khu kinh tế, đặc khu Thẩm Quyến ngày càng phát triển và cũng để lại một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất: Phải nói sự phát triển của đặc khu kinh tế Thẩm Quyến được sự quan tâm của chính phủ Trung Quốc: Nhà nươc đã có hệ thống luật pháp để bảo đảm và thu hút đầu tư nước ngoài vào Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, khoảng ba mươi văn bản pháp quy đã được thông qua nhằm thể chế hoá việc xây dựng và hoạt động cuả đặc khu kinh tế. Nhà nước thành lập văn phòng hội đồng nhà nước trung ương và Uỷ Ban Quản Lý các đặc khu kinh tế của cấp tỉnh để điều hành Đặc Khu Kinh Tế. Bên cạnh đó là hàng loạt các chính sách hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai: Biết chọn vị trí xây dựng Đặc khu thuận lợi. Thẩm Quyến nằm gần Hồng Kông có điều kiện tiến hành trao đổi, mậu dịch, hợp tác kinh tế, giao lưu kỹ thuật quốc tế, phải qua đường Hồng Kông mà du nhập vốn kỹ thuật, kinh doanh, quản lý. Hồng Kông là nơi tiêu thụ nông phẩm và công nghệ phẩm xuất khẩu. Ngoài ra Thẩm Quyến có bến cảng, sân bay lớn. Đặc biệt ở đây có hàng loạt đường ô tô cao tốc. Điều đó cho phép hình thành một mạng lưới giao thông hoàn chỉnh gồm cả ba mặt hải, lục, không.
Thứ ba: Mạnh dạn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, chấp nhận chính phủ và rủi ro chi phí đầu tư vốn lớn vào Đặc Khu Thẩm Quyến.
Thứ tư: Chính phủ Trung Quốc đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế, lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) trong các xí nghiệp có tính kỹ thuật cao, vòng quay tươn...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
L Đề án Giải phát phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất Hà Nội Kiến trúc, xây dựng 0
L Nghiên cứu đánh giá hiện trạng quản lý chất thải rắn công nghiệp tại khu chế xuất Tân Thuận Khoa học Tự nhiên 0
N Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
K Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào khu công nghiệp - Khu chế xuất Luận văn Kinh tế 0
D Pháp luật - Thực trạng thành lập, hoạt động khu công nghiệp, khu chế xuất . Nguyên nhân, giải pháp Luận văn Kinh tế 0
S Khu công nghiệp, khu chế xuất với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
X Đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước tại khu vực sơ chế s Môn đại cương 0
T Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp và khu chế xuất Việ Luận văn Luật 0
G [Free] Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 0
T Công ty chúng tôi nằm trong khu chế xuất, tiền thuế đất khu chế xuất đã trả trước và đã có giấy chún Hỏi đáp Thuế & Kế toán 1

Các chủ đề có liên quan khác

Top