Download miễn phí Đề án Quản lý công nghiệp - Đại học kinh tế quốc dân





Mục lục:

I. Liên kết kinh tế. 3

1.1. Tính tất yếu khách quan của việt liên kết kinh tế. 4

1.2. Các hình thức liên kết kinh tế . 4

2. Khái quát chung về ngành dệt may . 5

2.1. Các lĩnh vực trong ngành dệt may . 5

2.2. Lịch sử phát triển ngành may . 7

II. Thực trạng hoạt động liên kết kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . 9

1. Sự cần thiết . 9

2. Đánh giá chung tình hình liên kết dệt may . 11

2.1. Thượng vùng ngành may Việt Nam . 12

2.2. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . 13

3. Nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ dệt may không hiệu quả. 16

3.1. Ý kiến của các doanh nghiệp dệt . 16

3.2. Ý kiến của các doanh nghiệp may . 17

3.3. Ý kiến của các nhà nghiên cứu và quản lý . 18

III. Kiến nghị và giải pháp . 19

1. Một số giải pháp . 19

1.1. Các giải pháp pháp triển thượng nguồn may và tăng cường liên kết.19

1.2. Các giải pháp cụ thể . 22

2. Kiến nghị .

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


công nghiệp có lịch sử phát triển lâu dài ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi có từ lâu và phát triển mạnh trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Trước khi thực dân Pháp xâm lược Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu. Khi cai trị, thực dan Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại nước ta gặp nhiều khó khăn.Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên được Pháp xây dựng tại Nam Định, tiếp theo là năm 1894 tại Hàn Nội và sau đó là tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà máy hợp nhất thành “ Công ty dệt vải Đong KInh”. Chín phủ thực dân Pháp thu được nhiều lợi nhuận nhờ việc kinh doanh độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thứ hai, ngành dệt may Việt Nam có những bước phát triển đáng kể. Vào thời gian đó, các doanh nghiệp ở miền Bắc nhập máy móc thiết bị dệt sợi từ Trung Quốc, Liên Xôvà các nứoc Đông Âu, trong khi đó các doanh nghiệp miền Nam nhập máy móc thiết bị từ các nước phương Tây để đẩy mạnh sản xuất hàng dệt may. Năm 1975 sau khi nước ta thống nhất, các công ty dệt may quy mô lớn của miền Nam được quốc hữu hóa và đưa vào hệ thống kinh doanh bao cấp. Ủy ban Kế Hoạch nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất cho các doanh nghiệp dệt nhuộm, may nên hoạt động sản xuất lưu thông hoàn toàn dựa vào kế hoạch. Kế hoạc và việc sản xuất hàng dệt may được sản xuất theo quá trình: trước tiên. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho cácn doanh nghiệp may về kế hoạch sản xuất, lượng và giá. Các doanh nghiệp may căn cứ vào đó để tính số lượng nguyên vật liệu đầu vào rồi trình lên ban Ủy ban Kế hoạchvề các doanh nghiệp dệt có thể đáp ứng yêu cầu. Sau đó căn cứ vào các đề nghị này, Ủy ban Kế hoạch lại giao các chỉ tiêu sản lượng cho các doanh nghiệp dệt nhuộm ấn trình về giá và ngày giao hàng. Dụa vào giá cả và ngày giao hàng, các daonh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình lên ban Kế hoạch về nhà sản xuất sợi có thể đáp ứng yêu cầu. Cuối cùng, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ thị cho doanh nghiệp sợi sản xuất lượng sợi cần thiết như kế hoạch được trình bày ở trên.
Trong nèn kinh tế kế hoạch, nối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm, may rất mật thiết. Các doanh nghiệp may tiến hành sản xuất theo thiết kế, số lượng và giá đã được Ủy ban Kế hoạch nhà nước quy định. Các doanh nghiệp này thường xuyên nắm bắt những thông tin như loại vải nào thì sản xuất ở doanh nghiệp nào và giữ mối quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp nhuộm. Đơn giá, mẫu mã, của vải sử dụng ở các doanh nghiệp may do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước quy định, nhưng nhà cung cấp vải lại do các doanh nghiệp may trình lên Ủy ban Kế hoạch Nhà nước nên thực chất quyết định cuối cùng là do các doanh nghiệp này đưa ra.Đồng thời cá doanh nghiệp nhuộm cũng giữ mối quan hệ khăng khít với các doanh nghiệp dệt. Xết trên toàn ngành, mối quan hệ khăng khít cùng chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp được duy trì khá tốt.Tuynhiên, mối quan hệ khăng khít này đã có sự thay đổi lớn từ khi có Hiệp định thương mại gia công ủy thác được ký kết giữa chính phủ Liên Xô cũ và Chính phủ ViệtNam vào năm 1986. Theo hiệp định này, Chính phủ Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu tuqf Liên Xô để tiến hành sản xuất hàng may măc tại cácn daonh nghiệp nhà nứớc, sau đó xuất khẩu trở lại Liên Xô.Quy định này đã làm giảm hẳn nhu cầu đối với các sản phẩm của các doanh nghiệp nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiế giữa các doanh nghiệp cũng bị rạn nứt. Viếc các doanh nghiệp dệt, nhuộm đầu tư vào ngành may đã đẩy nhanh rạn nứt này.Các nhà doanh nghiệp dệt nhuộm cùng hoạt động trong cả lĩnh vực may và để tồn tại họ cần nhận được những đơn đặt hàng gia công ủy thác từ Liên Xô. Các doanh nghiệp trong các lĩnh vực dệt, nhuộm, may từ mối quan hệ hợp tác đã trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau. Người ta cho rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếu cho sụ phân ngành trong ngành dệt may Việt Nam chưa phát triển.
II. Thực trạng hoạt động liên kết kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
1. Sự cần thiết phải tăng cường mối quan hệ dệt-may ở Việt Nam.
Quan hệ chiều dọc của ngành dệt may có thể biể thị như sau:
Nguyên liệu -> Kéo sợi -> Dệt vải -> In nhuộm -> May
Trong thực tế, mặc dù không nhất thiết phải phát triển tất cả các khâu trong hệ thống sản xuất dệt may một cách đồng đều, nhưng nếu tạo ra được mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu trong điều kiện sẵn có thì sẽ có tác động to lớn trong việc đảm bảo tính chủ động, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới .
Sự cần thiết tăng cường mối quan hệ dệt may có thể thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
- Liên kết giữa khâu dệt và khâu may có thể góp phần nâng cao chất lượng nguyên liệu cho các doanh nghiệp may do ngành dệt có thể bám sát hơn nhu cầu cửa ngành may về các nguyên liệu. Ngành may mặc, mặc dù có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh , chủ yếu vẫn thể hiện cách gia công xuất khẩu( CMT), do dố cần chuyển dần sang cách tự sản xuất và xuất khẩu(FOB) để đạt hiệu quả cao hơn. Nhưng ngoài khó khăn về nhãn mác, thương hiệu, nguồn vải và phụ liệu ổn định, kịp thời và đam bảo chất lượng cũng là một trở ngậi lớn đối với ngành dệt may hiệ nay.
- Tăng cường liên kết dệt may tạo điều kiện giảm chi phí do giảm được các chi phí trung gian. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn nếu xem xét số liệu về cơ cấu hàng dệt may nhập khẩu. Chẳng hạn, tỷ lệ vải nguyên liệu trong hàng hóa dệt-may năm 1994 là 99,9%, đến năm 1997, tỷ lệ này giảm đi nhưng vẫn ở chiếm đến 90%. Theo đánh giá của hiệp hội Dệt May Việt Nam, sản phẩm may mặc xuất khẩu của Việt Nam đang đắt hơn sản phẩm cùng loại trong khu vực từ 10-15%. Do trong nước chưa chủ động được nguyên liệu hay nguyên liệu sản xuất trong nước có giá cao.
- Liên kết dệt may cho phép giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu, tăng giá trị gia tăng cho ngành dệt may và tăng đóng gốp của ngành vào nên kinh tế quốcdân.
Bảng 1. Tỷ trọng ngành dệt- may trong tổng kim nhạch xuất khẩu và nhập khẩu của nền kinh tế.
1994
1995
1997
1998
1998
2000
2001
2002
Xuất khẩu
14
16
17
15
15,1
13,1
13,2
16,7
Nhẩp khẩu
6,7
8,7
9,1
15,0
9,6
9,1
9,8
9,9
Nguồn: Viện kinh tế khoa học Hà Nội, trang 29.
Viện ngiên cứu thương mại, Bộ thương mại.
Các số liệu trong bảng 1 cho thấy, mặc dù đóng góp của ngành dệt may trong xuất khẩu của cả nước đang tăng lên, nhưng phần nhập khẩu của ngành cũng tăng tương ứng. Vì vậy, tăng cường liên kết giữa dệt may là nhu cầu cấp thiết hiện nay.
- Liên kết dệt- may góp phần tạo điều kiện cung cấp vải sợi ổn định, chủ động cho may xuất khẩu. Thực tế cho thấy, việc nhập khẩu vải sợi và phụ liệu khiến các doanh nghiệp gặp bất lợi, không chủ động được thời gian giao hàng.Có những doanh nghiệp do vải và phụ kiện chậm, chịu chi phí bổ sung cao do phải vận chuyển hàng bằng đường không nhằm bảo đảm thời hạn giao hàng. Vì vậy, nếu được cung cấp vải và phụ liệu ổn địnhtrong nước, các doanh nghiệp may sẽ giảm bót được rủi ro trông xuất khẩu.
- Liên kết dệt may tạo đièu kiện mở rộng thị trường của ngàn dệt từ đó tăng quy mô để đạt lợi thế về quy mô, giảm giá ngành, tăng súc cạnh tranh của ngành dệt, tăng tích lũy để tiếp tục tái đầu tư cho công nghệ mới nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành may.
2 Đánh giá chung tình hình liên kết dệt may Việt Nam
2.1 Thượng nguồn ngành may Việt Nam .
Hiện nay nguyên liệu cho công nghiệp dệt sợi Việt Nam chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Từ năm 1997 trở lại đây , trung bình mỗi năm cả nước nhập từ 91 triệu đến 109.7 triệu USD bông xơ tương đương với 5-6 vạn tấn bông xơ
Chỉ tiêu
Đ/vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Sản xuất
Bông xơ
Ng.tấn
4.08
4.52
4.52
5.66
6.45
7.39
10.5
Tơ nguyên liệu
Tấn
155
155.2
228.4
650
700
1500
Nhập khẩu
Bông xơ
Ng.tấn
682
37
42
68
83.3
90.4
113.1
Sợi tổng hợp
Ng.tấn
Sợi
Ng.tấn
93.8
74.68
113
183
160
237.8
210.7
Vải
Tr.USD
108.6
529.5
710.6
774.7
561.8
Nguyên phụ liệu
Tr.USD
488
710
1096
1422
1589
Nguồn : Niên giám thống kê 2001.
Bông và xơ tổng hợp là 2 loại nguyên liệu chính cho công nghiệp dệt. Ngành dệt Việt Nam hiện phải nhập hơn 90% nguyên liệu bông xơ 100% xơ sợi tổng hợp thuốc nhuộm và chất phụ trợ . Sự phụ thuộc về các yếu tố đầu vào không những làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế ngành dệt may mà còn gay nên tình tràn bị động trong điều hành sản xuất tổ chức các quan hệ liên kết dệt may.
Để giả quyết khó khăn trên từ các kết quả điều tra cơ bản về điều kiện tự nhiên, chính phủ Việt Nam đã có định hướng phát triển cây bông để tạo nguồn nguyên liệu trong nước cho công nghiệp sợi dệt và đã triển khai những chính sách cụ thể.
Năm
Diện tích (ha)
Năng suất(tạ/ha)
Sản lượng bông hạt (tấn)
1995
7610
5.67
4351
1996
11640
7.21
8390
1997
10774
6.2
6660
1998
11245
9.62
10820
1999
11984
9.75
22020
2000
115823
10
16551
2001
16596
11.15
18596
2002
29573
9.8
29000
Nguồn : Cục khuyến nông ,Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn...

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top