rica17

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Phân tích tâm lý hoạt động của sinh viênHƯỚNG NGHIỆP VÀ THÍCH ỨNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ CÔNG TÁC HƯỚNG NGHIỆP
1. Hướng nghiệp là gì?
Trong cuộc sống của mỗi người, tuổi thanh niên là thời điểm có nhiều xáo trộn.
Đây là lúc họ cần thiết phải suy nghĩ đến cuộc sống tương lai của bản thân. Không ít
các câu hỏi đặt rà trong họ như: "mình sẽ làm gì", mình chọn nghề gì", "nghề nào hay
nhất"... là những trăn trở trong đời sống tinh thần của thanh thiếu niên.
Đối với một số học sinh cuối cấp phổ thông, việc tìm ra câu trả lời cho những
đắn đo trên là không khó khăn lắm (tất nhiên, số này rất hiếm). Đa số còn lại, những
câu hỏi đặt ra cho các em nhiều suy nghĩ, buộc các em phải tìm kiếm lâu đài, hỏi có
bao nghề đáng yêu, đáng gửi gắm "số phận" của mình, có biết bao con đường để đạt
tới mục đích của cuộc sống.
Việc xác nhận cho mình một hướng đi, một nghề nghiệp chỉ có thể có được ở
những cá nhân có khả năng nhận thức và nhận thức một cách tự do các đối tượng bên
ngoài, có khả năng xem xét, so sánh, đánh giá những dạng khác nhau của hoạt động
lao động để đi tới một quyết định cho bản thân. Tất nhiên, sự tự lựa chọn này không
thể tuyệt đối bởi vì nó còn bị giới hạn bởi nhiều điều kiện: kinh tế, chính trị, xã hội,
năng lực bản thân...
Như vậy, lựa chọn nghề nghiệp là một quá trình biểu hiện chức năng động của chủ
thể, nó không chỉ liên quan tới nội dung hay hình thức của đối tượng lựa chọn mà còn
chịu sự chi phối của chính chức năng động ấy: Điều chỉnh, hướng dẫn và phát triển tính
năng động này cho mỗi cá nhân là trọng trách của công tác hướng nghiệp, nó tham gia
vào hệ thống khách quan điều chỉnh các điều kiện chủ quan, giúp cho cá nhân đi tới
nghề nghiệp một cách khoa học và đúng đắn.
Vậy có thể hiểu như thế nào về khái niệm "Hướng nghiệp"? Tháng 10/1980, Hội
nghị lần thứ 9 những người đứng đầu cơ quan giáo dục nghề nghiệp các nước XHCN
họp ở LaHabana thủ đô Cu Ba đã thống nhất về khái niệm hướng nghiệp như sau:
"Hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý
học, y học và nhiều khoa học khác để giúp đỡ học sinh chọn nghề phù hợp với nhu cầu
xã hội, đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện vọng phù hợp với năng lực sở trường và điều
kiện tâm lý cá nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất lực
lượng dự trữ có sẵn của đất nước"[7].
Khái niệm trên về hướng nghiệp là sự kết hợp tương đối hài hòa nhu cầu của mỗi
cá nhân và nhu cầu xã hội. Khái niệm đã đặt nhiệm vụ đào tạo con người cho xã hội
làm nhiệm vụ trung tâm, trước tiên; đồng thời luôn đảm bảo tính cá thể trong sự phát
triển tự do của mỗi nhân cách. Khái niệm trên cũng đề cập tới tính chất phức tạp của
công tác hướng nghiệp, đòi hỏi phải có sự tham gia đồng bộ của nhiều bộ phận xã hội
nhằm giải quyết hợp lý lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất nước. Khái niệm trên
đây là đầy đủ vì nó bao gồm trong đó nội đung, cấu trúc, đặc trưng cơ bản, phương
pháp tiến hành và mục đích hướng nghiệp. .
Nói một cách ngắn gọn, dưới góc độ giáo dục, hướng nghiệp là sự tác động của
một tổ hợp các lực lượng xã hội, lấy sự chỉ đạo của một hệ thống sư phạm làm trung
tâm hướng vào thế hệ trẻ, giúp cho các em có thể lựa chọn cho mình một cách có ý
thức nghề nghiệp tương lai.
2. Nghề nghiệp là gì ?
Nghề nghiệp theo nghĩa La tinh (Professio) có nghĩa là công việc chuyên môn
được định hình một cách chính thống, là dạng lao động đòi hỏi một trình độ học vấn
nào đó, là cơ sở hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Theo tác giả E.A.Klimov thì: "Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng lao động vật
chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân
công lao động xã hội mà có), nó tạo cho con người khả năng sử dụng lao động của
mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển"[12] (Theo
Từ điển Tiếng Việt, khái niệm nghề là "công việc chuyên làm theo sự phân công lao
động của xã hội").
Từ một số khái niệm nêu trên, chúng ta có thể hiểu về nghề nghiệp như một dạng
lao động vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu
bản thân), trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn
những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân. Như vậy, nói tới nghề nghiệp, trước
hết phải nói tới những điều kiện khách quan do xã hội đặt ra (Ví dụ: khi xã hội chưa có
những đòi hỏi phải trồng trọt và chăn nuôi thì chưa có cái gọi là nghề trồng trọt và
chăn nuôi. Tuy nhiên bản thân nhu cầu về trồng trọt và chăn nuôi của xã hội khi không
thỏa mãn những đòi hỏi kiếm sống của mỗi cá nhân thì những dạng lao động trên chỉ
được coi như là đối tượng trong sự tìm kiếm chứ chưa thể là nghề của cá nhân đó).
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị: tri thức lý
thuyết nghề, kĩ năng, kĩ xảo nghề, truyền thống nghề, đạo đức phẩm chất nghề, hiệu
quả do nghề mang lại. Những giá trị này có thể được hình thành theo con đường tự
phát (do tích lũy kinh nghiệm trong quá trình sống với cộng đồng mà có) hay theo
con đường tự giác do được đào tạo trong các cơ sở trường, lớp dài hạn hay ngắn hạn).
Hoạt động trong bất kỳ nghề nghiệp nào, mỗi cá nhân tiêu tốn một số lượng vật
chất (sức lực) và tinh thần (trí tuệ) nhất định. Cá nhân sống bằng nghề nào thì lượng
tiêu hao về sức lực và trí tuệ cho dạng lao động của người đó là lớn nhất. Chính vì thế,
nghề được coi như là đối tượng hoạt động cơ bản trong một giai đoạn nào đó của đời
sống cá nhân và trong đa số các trường hợp, nó gắn bó với cả cuộc đời con người,
hay giả còn truyền từ đời này sang đời khác.
Nghề luôn luôn là cơ sở giúp cho con người có nghiệp (việc làm) và từ đó tạo ra
sản phẩm thỏa mãn nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu xã hội. Còn nếu như một người
nào đó chỉ có nghề mà không có nghiệp, người đó được coi là người thất nghiệp (sinh
viên tốt nghiệp ra trường chưa tìm được việc làm).
Bất cứ việc làm nào cũng gắn bó với một nghề cụ thể (hay một chuyên môn cụ
thể), song không thể coi việc làm với nghề là đồng nghĩa. Việc làm là một dạng hoạt
động cụ thể nhằm biến đổi đối tượng phục vụ cho lợi ích của bản thân. Như vậy, việc
làm có cơ sở từ nghề được đào tạo và cũng có thể là những công việc nhất thời đáp
ứng kế sinh nhai của chủ thể.
Đôi khi, người ta nhầm lẫn giữa nghề nghiệp với việc làm vì chúng đều xuất phát
từ quan niệm những kĩ năng của một hay nhiều nghề được cá nhân sử dụng trong quá
trình lao động. Nếu việc làm diễn ra trong một thời gian dài, có cơ sở từ nghề dược
đào tạo, có thu nhập ổn định, trong quá trình lao động cá nhân thường xuyên sử dụng
một hệ thống tri thức và các kỹ năng được huấn luyện (tay nghề), khi đó cá nhân
không chỉ có nghề mà có cả nghiệp.
Nói tóm gọn: Nghề nghiệp - đó là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một
quá trình đào tạo chuyên biệt, có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nhất
định. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm thỏa
mãn những nhu cầu của cá nhân và xã hội.
Nghề nghiệp cũng được xuất hiện dưới ảnh hưởng của sự phân công lao động xã
hội. Những nghề đầu tiên xuất hiện vào giai đoạn nảy sinh chế độ công xã nguyên
thủy: săn bắn, hái lượm. Sự phân công lao động diễn ra trong giai đoạn này mang tính
chất tự phát, nhằm bảo tồn cuộc sống. Với sự phát triển của sức sản xuất, bằng quá
trình hoàn thiện công cụ lao động, một số bộ lạc chuyển từ hình thức hái lượm trước
đây sang trồng trọt, còn một số bộ lạc khác chuyển từ săn bắn sang chăn nuôi. Chính
việc phân chia này làm nảy sinh những nghề đầu tiên là chăn nuôi và trồng trọt. Người
ta gọi đó là cuộc đại phân công lao động lần thứ nhất. Cuộc đại phân công lao động lần
thứ hai đã tách lao động thủ công khỏi lĩnh vực trồng trọt, kết quả của cuộc đại phân
công lần này sự ra đời của hàng loạt nghề mới: rèn, mộc, đồ gốm, thuộc da, dệt vải,
may mặc... Theo đà phát triển của sản xuất, công cụ sản xuất ngày một hoàn thiện,
máy móc xuất hiện dẫn tới sự biến đổi cách sản xuất thủ công đơn chiếc sang
đại công trường thủ công sản xuất theo dây chuyền và rồi tiến lên cơ giới hóa, điện khí
hóa, tự động hóa. Kèm theo sự biến đổi này là quá trình xuất hiện của hàng nghìn nghề
mới trong danh mục các nghề nghiệp có trong xã hội.
Ngày nay, gắn liền với nhịp điệu phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật,
thường xuyên diễn ra quá trình biến mất của một số nghề và xuất hiện một số nghề
khác. Ví dụ trong công nghiệp khai thác than và quặng mỏ, các nghề cuốc lò thủ công,
chuyên chở than và quặng bằng mang vác đã bị xóa bỏ, đồng thời có những nghề mới
xuất hiện như thợ lái máy liên hợp khai thác mỏ, thợ tải băng chuyền, thợ khoan lò...
Mặt khác, từ hàng loạt những nghề cũ lại có sự phân nhánh thành những nghề mới
tượng ứng với quá trình công nghiệp hiện đại. Chẳng hạn bên cạnh nghề quét sơn thủ
công lại có thợ sơn bóng và sơn phủ bằng máy; bên cạnh thợ giặt là thủ công lại có
những người thợ giặt là bằng máy nén hơi hay máy cán ép...
Tới những năm cuối thế kỷ XX, sản xuất xã hội chuyển từ tác động cơ bắp trực
tiếp vào đối tượng sang việc sử dụng các dạng thông tin điều hành, điều chỉnh quá
trình sản xuất. Hàm lượng chất xám ngày một tăng dần trong tổng giá trị của mỗi sản
phẩm do quá trình sản xuất mang lại. Sự chuyển giao giữa các nền sản xuất (nền sản
xuất công nghiệp thay thế nền sản xuất nông nghiệp, nền sản xuất thông tin thay thế
cho nền sản xuất công nghiệp) và sự ra đời của nền sản xuất tri thức hiện nay đã làm
xuất hiện hàng nghìn nghề mới trong danh mục các nghề có trong xã hội . Chẳng hạn
gần đây, người ta đã đoán 8 nghề sau có nguy cơ biến mất (Nghề môi giới : Do
mạng Internet phát triển nên nghề môi giới bảo hiểm, môi giới thư tín, môi giới chứng
khoán... sẽ bị lãng quên vì mọi trao đổi sẽ được thực hiện trực tiếp thông qua mạng
nên không cần đến trung gian. Nghề thư ký: Do ngày càng xuất hiện nhiều thiết bị điện
tử gọn nhẹ, hiện đại nên người ta chỉ cần ấn nút là có được đầy đủ thông số cần thiết.
Nghề in ấn cũng sẽ bị mai một khi báo chí điện tử và các loại ấn phẩm khác phát triển.
Nghề nha sĩ: Nhờ có các thiết bị hiện đại như máy chẩn đoán 3 chiều và các vật liệu
chữa răng "ăn liền" nên con người có thể tự chữa răng cho mình vừa đẹp, vừa tiện lợi.
Nghề giám đốc điều hành sẽ được máy tính thực hiện. Con người có thể dùng máy tính
để liên lạc hay phục vụ các mục tiêu tương tự, kể cả trình diễn, giới thiệu kế hoạch
kinh doanh trước hội nghị mà không cần đến chức danh này. Nghề coi tù: Hệ thống
nhà tù trong tương lai sẽ được lắp đặt các thiết bị điện tử gắn lên người phạm nhân để
theo dõi các hoạt động của họ. Bởi vậy nghề coi tù sẽ biến mất. Nghề quản gia: Nghề
này được thay thế bằng hệ thống điều khiển và giám sát tự động, chủ nhân có thể kiểm
soát, trông nom nhà cửa của họ từ xa một cách hiệu quả. Nghề lái xe. Tương lai ngành
hàng không và tàu hỏa cao tốc sẽ thay dần cho các phương tiện vận tải đường bộ, nhất
là vận tải bằng ô tô lớn vừa tốn kém lại gây ô nhiễm môi trường.
Cũng dựa vào những dữ liệu khoa học, các nhà nghiên cứu cho rằng, đi vào thế
kỷ XXI, các loại nhân tài, nghề nghiệp sau là quan trọng nhất. Định kế hoạch : Nền
kinh tế đa dạng trong xã hội ngày càng đòi hỏi những nhà đặt kế hoạch phải có chất
xám, chuyên môn nghiệp vụ thành thạo, có tầm nhìn xa. Pháp luật: Pháp luật là cán
cân công lý, chuẩn xác, là chỗ dựa cho mọi thứ cần giải quyết công bằng, do vậy nhân
tài pháp luật phải kỳ công nghiên cứu để có những đạo luật giảm kẽ hở mà bọn phạm
pháp có thể lợi dụng đến mức tối đa. Nhân tài điện toán : ứng dụng điện toán vào các
mặt quản lý, thiết kế, hoạch định hài hòa, làm thế nào cho mạng lưới điều hành không
được xảy ra dù chỉ một thiếu sót nhỏ. Bảo vệ môi trường : Những học giả về sinh công
nghiệp và độc hại là nhân tài hết sức cần thiết. Tư vấn: Đây là ngành phục vụ cho tất
cả các loại nghề, do đó cần những nhân tài tổng hợp biết làm kinh tế, tiền tệ, thống kê,
sử dụng máy tính. Bảo hiểm: Phải có những người tinh thông mọi lĩnh vực bảo hiểm
để đáp ứng được nhanh chóng và chuyên nghiệp về lĩnh vực này, gây được lòng tin
cho khách hàng. Các thầy thuốc: Phục vụ tại nhà, khoa lão sinh sẽ phát triển. Nghề
phục vụ cá nhân có cá tính đặc biệt: Đó là những người đáp ứng được nhu cầu của các
gia đình cần có sự phục vụ khác thường mà người ta thường gọi là phải có tri thức
chăm sóc theo tâm lý, đoán trước được ý muốn của đối tượng. Nghề tiêu thụ hàng hóa
- trao đổi tiền tệ, buôn bán : Cần những người nắm thông tin thị trường, thông thạo
nghiệp vụ chứng khoán, tiền tệ. Du lịch. Nhân sự quản lý con người: Sự cạnh tranh
diễn ra trong xã hội muôn màu muôn vẻ, cũng là sự cạnh tranh nhân tài, bình giá chất
lượng nhân tài, quản lý con người trong các xí nghiệp sẽ trở thành những "siêu” nhân
tài. Nghề giáo dục.
3. Phân loại nghề
Số nghề như ta thấy, hiện nay lên tới hàng chục nghìn.
Vậy thì sự khác nhau giữa các nghề là ở chỗ nào? Có nhiều cách phân loại nghề
và mỗi cách như chúng tui trình bày dưới đây chỉ thâu tóm được những đặc trưng cơ
bản nhất của nghề theo một bình diện nào đó. Tuy nhiên, trên cơ sở của sự phân loại,
nó cho phép chúng ta phân biệt được giữa các nghề (hay nhóm nghề) theo dấu hiệu
bản chất của nghề (hay nhóm nghề) đó với các nghề (hay nhóm nghề) khác.
Dưới đây chúng tui trình bày 2 cách phân loại nghề phổ biến hiện nay.
a) Cách phân loại thứ nhất
Theo cách phân loại này, người ta phân chia các nghề theo 4 dấu hiệu cơ bản sau:
• Đối tượng lao động của nghề. Đó là một hệ thống những thuộc tính phản ánh
mặt hình thức, nội dung của nghề và các mối quan hệ giữa những thuộc tính này trong
đối tượng.
Ví dụ: Người làm vườn thì đối tượng lao động là cây trồng và những hiện tượng
sinh học có liên quan ; đối tượng của người bác sĩ là người bệnh và những hiện tượng
bệnh lý, sinh lý người...
Trong đối tượng lao động, chúng ta cần đặc biệt lưu ý tới nguyên liệu có trong
đối tượng. Chẳng hạn, người thợ nguội có quan hệ với đối tượng thông qua việc tiếp
xúc với các nguyên liệu như kim loại, hợp kim.
Căn cứ trên đối tượng lao động, các nghề được phân thành các dạng:
- Nghề có đối tượng là thiên nhiên (trồng trọt, chăn nuôi...);
- Nghề có đối tượng là con người (dạy học, chữa bệnh...);
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top