oi_tinhyeu117

New Member

Download miễn phí Đề tài Ngân hàng, Quỹ đầu tư, Công ty cho thuê tài chính, Công ty chứng khoán, Công ty Bảo hiểm





Hiện nay có hơn 61 công ty chứng khoán tại Việt Nam. Các công ty này cung cấp các dịch vụ tài chính như: dịch vụ tư vấn phát hành riêng lẻ, tổ chức đấu giá bán cổ phần, tư vấn phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và các dịch vụ liên quan đến môi giới chứng khoán.

Tính đến 30/8/2007, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty, với tổng số vốn điều lệ đạt 5.735 tỷ đồng. Trong đó, có 43 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán.

Mặc dù số lượng CtyCK đi vào hoạt động từ năm 2007 tăng gấp 3-4 lần so với năm 2006, nhưng kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 của nhiều CtyCK vẫn khá tốt, điển hình là các CtyCK đã có thời gian hoạt động lâu như CtyCK Sài Gòn (SSI) - lợi nhuận sau thuế đạt 668,5 tỷ đồng, CtyCK ACB (ACBS) - lợi nhuận sau thuế đạt 141 tỷ đồng, CtyCK Bảo Việt (BVSC) - lợi nhuận sau thuế đạt 156,8 tỷ đồng. và một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng không chịu lép vế trước các CtyCK đàn anh như: CtyCK Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (SBS) - lợi nhuận sau thuế đạt 125,2 tỷ đồng, CtyCK Đại Việt - lợi nhuận sau thuế đạt 39,4 tỷ đồng, CtyCK Quốc Tế Việt Nam - lợi nhuận sau thuế đạt 23,7 tỷ đồng.

Trong quá trình hoạt động, các CtyCK luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến hết ngày 30/6/2007, ngoài 56 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 25 chi nhánh, 14 phòng giao dịch, 24 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phòng giao dịch và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006). Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều CtyCK đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và đáp ứng quy định vốn pháp định theo yêu cầu của Nghị định 14 hướng dẫn Luật Chứng khoán. Trong 6 tháng đầu năm 2007, 4 CtyCK gồm Sao Việt (tăng từ 20 tỷ đồng lên 36 tỷ đồng), CtyCK An Bình – ABS (tăng từ 50 tỷ đồng lên 330 tỷ đồng), CtyCK Hà Thành (tăng từ 18 tỷ đồng lên 60 tỷ đồng), CtyCK Kim Long (tăng từ 18 tỷ đồng lên 315 tỷ đồng).

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


Lời nói đầu:
Như chùng ta đã biết Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn, là một bộ phận quan trọng cấu thành nên hệ thống tài chính của nền kinh tế. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa là người người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính.
Hiện tại trong hệ thống tài chính ở Việt Nam, các tổ chức tài chính trung gian đang phát triển nhanh hoà nhịp vào xu thế hội nhập kinh tế của đât nước, góp 1 phần quan trọng giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Hiện tại các tổ chức tài chính trung gian đang phát triển mạnh ở Việt Nam là : Ngân hàng, Quỹ đầu tư, Công ty cho thuê tài chính, Công ty chứng khoán, Công ty Bảo hiểm.
Quỹ đầu tư tại Việt Nam
Những quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng đầu những năm 1990. Trong nửa đầu những thập kỷ 90, có tám quỹ đầu tư tiến hành hoạt động tại Việt Nam với tổng lượng vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Thời điểm sau năm 1997 chỉ còn lại hai quỹ đầu tư là Vietnam Enterprise Investment Fund (VIEL) do công ty Dragon Capital quản lý và Vietnam Frontier Fund (VFF) thuộc tập đoàn Finasa. Giai đoạn từ 2002 đến 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư tương đối trầm lặng. Mặc dù vậy vẫn xuất hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các công ty Mekong Capital, VinaCapital, IDG, VietFund hay PXP Asset Management.
Cùng với những biến đổi tích cực và mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, từ giữa năm 2006, hệ thống tài chính Việt Nam ghi nhận giai đoạn bùng nổ các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ. Trong hai năm 2006-2007, khoảng 20 quỹ đầu tư được mở mới. UBCKNN cũng cấp giấy phép hoạt động cho 17 công ty quản lý quỹ. Trong số này, nổi bật có Công ty liên doanh Quản lý quỹ đầu tư BIDV-Vietnam Partners với quỹ VIF có qui mô vốn tối đa 1.600 tỷ đồng và một loạt công ty thành lập vào nửa cuối năm 2007 với qui mô vốn lớn: Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (vốn điều lệ lớn nhất thị trường- 110 tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ SSI (vốn điều lệ 30 tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Đông Á (vốn điều lệ- 30 tỷ đồng) Còn phải kể tới hoạt động của các công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam như Nomura Internetional (Hongkong), Blackhorse Asset Management Pte Ltd. (Singapore) hay Mirae Asset Maps Investment Management Co., Ltd. (Hàn Quốc).
Các quỹ hoạt động chủ yếu ở Việt Nam có thể được phân loại như sau:
Các quỹ đầu tư chủ yếu vào private equity
Bank Invest’s Private Equity New Markets (PENM)
Mekong Capital's Mekong Enterprise Fund, Ltd.
Mekong Capital's Mekong Enterprise Fund II, Ltd.
Saigon Capital’s Saigon Phoenix Fund
Các quỹ tập trung vào công nghệ và đầu tư mạo hiểm
IDG Venture's IDG Vietnam Ventures Fund
Mekong Ventures (structured as an investment company, not a fund)
VinaCapital's DFJ-VinaCapital LP
Quỹ đầu tư vào Bất động sản
Anpha Capital’s Vietnam Property Holding (VPH)
Bao Tin Capital’s Bao Tin Real Estate Fund
Dragon Capital’s Vietnam Resource Investments
Indochina Capital's Indochina Land Holdings
Ireka Corporation Berhad’s Aseana Properties
JSM Capital Indochina’s JSM Indochina Ltd
Korea Investment Trust Management Co’s Vietnam Real-Estate Development Fund
VinaCapital’s Vietnam Infrastructure Limited (VNI)
VinaCapital's VinaLand
Các quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết, các công ty cổ phần và các khoản đầu tư cơ hội
Anpha Capital’s Vietnam Equity Holding (VEH)
Bao Tin Capital’s Bao Tin Equity Fund
Bao Viet Fund Management Co.’s Bao Viet Investment Fund
Blackhorse Asset Management's Blackhorse Enhanced Vietnam Inc
BIDV-Vietnam Partners' Vietnam Investment Fund
Deutsche Bank's DWS Vietnam Fund
Deutsche Bank's DWS Vietnam Fund
Dragon Capital Management's Vietnam Enterprise Investments Ltd. (VEIL)
Dragon Capital Management's Vietnam Growth Fund Limited
Dragon Capital Management's Vietnam Dragon Fund
Finansa's Vietnam Equity Fund
Golden Bridge Financial Group's Vina Blue Ocean Fund
Hanoi Fund Management’s Hanoi Fund
Indochina Capital's Indochina Capital Vietnam Holdings
Jardine Fleming's JF Vietnam Opportunities Fund
Jardine Flemings' JF Vietnam Opportunities Fund
Kamm Investment Company's Kamm Investment Holdings
Korea Investment Trust Management's Vietnam Growth Fund
Korea Investment Trust Management's Worldwide Vietnam Fund
Korea Investment Trust Management Co’s China and Vietnam Fund
Korea Investment Trust Management Co’s KITMC RSP Balanced Fund
Korea Investment Trust Management Co’s KITMC Vietnam Growth Fund I and II
Korea Investment Trust Management Co’s KITMC Worldwide Vietnam Fund I and II
Korea Investment Trust Management Co’s Vietnam Oilfield Fund
Lion Capital’s Lion Capital Vietnam Fund
Manulife Vietnam Fund Management Co. Ltd’s Manulife Progressive Fund (MAPF1)
Mekong Capital's Vietnam Azalea Fund
Mirae Asset’s Mirae Asset Securities JSC
Maxford Investment management Ltd’s Vietnam Focus Fund SP
Orient Management Company’s Orient Fund 1 (OF1)
Prudential Vietnam Fund Management Co.’s Prudential Balanced Fund
Prudential Vietnam Securities Investment Fund Management Company's Vietnam Segregated Portfolio Fund
PXP Vietnam Asset Management's Vietnam Lotus Fund
PXP Vietnam Asset Management's PXP Vietnam Fund Ltd
PXP Vietnam Asset Management's Vietnam Emerging Equity Fund
Thanh Viet Corporation’s Saigon Securities Investment Fund A1 (SFA1)
Thanh Viet Corporation’s Saigon Securities Investment Fund A2 (SFA2)
Viet Capital Fund Management’s Viet Capital Fund (VCF)
VietFund Management’s Viet Fund 1 (VF1)
VietFund Management’s Viet Fund 2 (VF2)
VietFund Management’s Viet Fund 3 (VF3)
Vietcombank Fund Management (VCBF)'s Vietcombank Partners Fund 1 (VPF1)
Vietnam Asset Management (VAM)'s Vietnam Emerging Market Fund (VEMF)
Ngân hàng
Hiện ngân hàng đã là kênh huy động, cung ứng vốn chính cho nền kinh tế với 30% vốn đầu tư phát triển hàng năm và 40% tổng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp được tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Tuy còn thấp hơn so với một số nước khác, nhưng tổng dư nợ tín dụng qua hệ thống ngân hàng vào cuối năm 2005 đã trên 60% GDP, cao hơn mức bình quân chung của các nước có thu nhập thấp.
Không những thế, nếu trong những năm giữa thập niên 1990, phần lớn (hơn ba phần tư) nguồn vốn của các ngân hàng đổ vào các doanh nghiệp nhà nước, thì đến cuối năm 2005, con số này chỉ còn khoảng 30%.
Ngoài ra, các sản phẩm dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn, các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò tích cực hơn rất nhiều.
Mặc dù phát triển mạnh trong những năm gần đây, lĩnh vực ngân hàng bán lẻ của Việt Nam vẫn còn nhỏ bé. Tài sản của các ngân hàng tính đến thời điểm năm 2006 mới chỉ đạt khoảng 75 tỷ USD (tương đương 123% GDP), trong khi con số này ở Thái Lan là 226 tỷ USD (110%) và ở Malaysia là 302 tỷ USD (195%). Ngoài ra, chỉ chưa đầy 10% dân số của Việt Nam có sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Các ngân hàng tại Việt Nam được phân loại thành 4 nhóm chính:
Chi nhánh các Ngân hàng nước ngoài
Trước đây, các Ngân hàng này tập trung cung cấp dịch vụ cho các khách hàng đa quốc gia tại Việt Nam, ...

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top