Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

LỜI MỞ ĐẦU

Du lịch đã được coi là ngành “công nghiệp không khói”. Vai trò của ngành du lịch được đánh giá rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Thành công của ngành du lịch ở nhiều quốc gia đã đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của họ. Tầm quan trọng của ngành du lịch không chỉ đối với nền kinh tế, mà nó còn mang tính xã hội, thể hiện ở chỗ tạo thêm nhiều việc làm (hơn 234 triệu việc làm, chiếm tỷ lệ 1/11,5 công việc trên toàn cầu), thông qua nhiều ngành khác nhau như vận tải, lưu trú, bán lẻ, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính. Nhiều khu vực khác cũng được hưởng lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch, như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm.
Ngành du lịch Việt Nam đến nay đã được gần 48 tuổi, song mới chỉ thực sự khởi sắc trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ và chưa đồng bộ. Những năm gần đây, ngành du lịch của Việt Nam đã có bước phát triển nhanh và mạnh, nhưng so sánh về mặt quy mô với các nước trong khu vực Đông Nam Á thì còn quá khiêm tốn. Cụ thể, tổng nhu cầu khoảng 235,6 tỷ USD, nhưng Việt Nam chỉ đạt 9,723 tỷ USD; giải quyết 22 triệu việc làm nhưng Việt Nam chỉ giải quyết được khoảng 3 triệu việc làm. Tuy vậy, nhiều chuyên gia kinh tế đã đánh giá, ngành du lịch Việt Nam sẽ tăng trưởng trong vòng 10 năm tới, cụ thể tổng nhu cầu sẽ tăng từ 9,723 tỷ USD lên 22,249 tỷ USD; giải quyết được 4 triệu việc làm, chiếm 9,5% tổng việc làm. Do đó, nghiên cứu về ngành du lịch và tác động của nó đến nền kinh tế, xã hội là điều cần thiết.






MỤC LỤC

Nội dung Trang
A – Khái niệm, bản chất và đặc trưng của du lịch 3

I – Khái niệm du lịch 3
II – Bản chất của du lịch 3
III – Đặc trưng của du lịch 4

B - Các tác động của du lịch đến kinh tế - xã hội Việt Nam 4

I – Về mặt kinh tế 4
II – Về mặt xã hội 9
III – Một số tác động tiêu cực do du lịch gây ra 13
IV – Một số biện pháp khắc phục 18
V – Mục tiêu của ngành du lịch trong những năm tới 18

C – Kết luận 20












Tác động về kinh tế - xã hội của du lịch


A – Khái niệm, bản chất và đặc trưng của du lịch :
Du lịch là nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Do đó, để phân tích một cách đầy đủ, chi tiết tầm quan trọng của du lịch đối với nền kinh tế - xã hội nước ta cần thấy rõ được khái niệm, bản chất, đặc trưng của hoạt động du lịch, đó là :
I – Khái niệm du lịch :
Du lịch là một đề tài hấp dẫn và đã trở thành một đề tài mang tính chất toàn cầu.Khái niệm “du lịch” được hiểu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Michael Coltman ( Mỹ) đã đưa ra một định nghĩa rất ngắn gọn về du lịch: “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gổm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”. Tại Việt Nam, trong Pháp lệnh Du lịch, tại Điều 10, thuật ngữ “Du lịch” được hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người tại nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

II – Bản chất du lịch :

1 – Nhìn từ góc độ nhu cầu của du khách :
Du lịch là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người đến một giai đoạn phát triển nhất định. Chỉ trong hoàn cảnh kinh tế thị trường phát triển, gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng thời gian rỗi do tiến bộ của khoa học công nghệ, phương tiện giao thông và thông tin ngày càng phát triển, làm phát sinh nhu cầu nghỉ ngơi và tham quan của con người. Bản chất đích thực của du lịch là du ngoạn để cảm nhận những giá trị vật chất và tinh thần có tính văn hóa cao.
2 – Xét từ góc độ các quốc sách phát triển du lịch :
Dựa trên nền tảng của tài nguyên du lịch để hoạch định chiến lược phát triển du lịch, định hướng các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn và trung hạn. Lựa chọn các sản phẩm du lịch độc đáo và đặc trưng từ nguồn nguyên liệu trên, đồng thời xác định phương hướng quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch tương ứng.
3 – Xét từ góc độ sản phẩm du lịch :
Sản phẩm đặc trưng của du lịch là các chương trình du lịch, nội dung chủ yếu của nó là sự liên kết các di tích lịch sử, di tích văn hoá và cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng cùng với cơ sở vật chất kỹ thuật như cơ sở lưu trú, ăn uống, vận chuyển.
4 – Xét từ góc độ thị trường du lịch :
Mục đích chủ yếu của các nhà tiếp thị du lịch là tìm kiếm thị trường du lịch, tìm kiếm nhu cầu của du khách để « mua chương trình du lịch «

III – Đặc trưng của du lịch :

- Nhu cầu trong tiêu dùng du lịch là những nhu cầu đặc biệt.
- Nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hóa, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, bơi và tắm ở biển, hồ sông... của con người thời hiện đại.
- Tiêu dùng du lịch thỏa mãn các nhu cầu về hàng hóa và đặc biệt chủ yếu là các nhu cầu về dịch vụ.
- Việc tiêu dùng du lịch chỉ thỏa mãn những nhu cầu thứ yếu, những nhu cầu không thiết yếu đối với con người
- Việc tiêu dùng các dịch vụ du lịch và hàng hóa xảy ra cùng một thời gian và tại cùng một địa điểm với việc sản xuất ra chúng.
- Tiêu dùng du lịch xảy ra thông thường theo thời vụ.

Do đó, hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hoá – xã hội. Ngành Du lịch đã đem lại cho Việt Nam lợi ích to lớn về mặt kinh tế - xã hội.

B - Các động của du lịch đến kinh tế - xã hội Việt Nam :

I - Về mặt kinh tế :

1. Đối với du lịch nội địa :
- Du lịch tham gia tích cực vào qúa trình tạo nên thu nhập quốc dân, làm tăng tổng sản phẩm quốc nội.
- Tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng.
- Bên cạnh đó, du lịch nội địa phát triển tốt sẽ củng cố sức khỏe cho nhân dân lao động và do vậy góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội.





2. Đối với du lịch quốc tế chủ động:

a – Du lịch tham gia tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
Dịch vụ du lịch có giá trị xuất khẩu cao và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất trong các hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc biệt là theo góc độ thu ngoại tệ và thu hút lao động, tạo công ăn việc làm. Xuất nhập khẩu dịch vụ có ảnh hưởng lớn đến cán cân thanh toán của toàn bộ nền kinh tế. Để đẩy mạnh xuất nhập khẩu dịch vụ nhằm giảm dần nhập siêu và tiến tới cải thiện cán cân dịch vụ trong thập niên này.
Trong những năm qua, số lượng khách nước ngoài đến Việt Nam tăng cao, từ 250.000 lượt khách năm 1990 lên đến gần 3.6 triệu lượt người năm 2006, tăng trung bình 20%/ năm. Trong 9 tháng đầu năm 2007, lượng khách quốc tế ước tính là 3.171.763, tăng 18.5% so với cùng kỳ năm 2006. Doanh thu từ du lịch là 1.6 tỷ USD năm 2004, hơn 1.7 tỷ USD năm 2005, 3 tỷ USD năm 2006. Năm 2010, Việt Nam dự kiến sẽ có từ 6 – 6.5 triệu lượt khách quốc tế, nâng tổng doanh thu lên 4 – 5 tỷ USD. Thống kê của Tổng cục Du lịch cho biết, trung bình mỗi khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chi tiêu hơn 900USD đã góp phần đẩy doanh thu « xuất khẩu tại chỗ » năm 2005 lên 3 tỷ USD
Tuy nhiên, hầu hết khách du lịch quốc tế vào Việt Nam chủ yếu qua đường tour, do các công ty lữ hành trong nước tổ chức. Các công ty nước ngoài đảm nhận chi phí vé máy bay hay chi phí vận tải khách đến Việt Nam. Các hãng điều hành tour của Việt Nam thu chi phí các khoản dịch vụ liên quan đến đi lại, ăn ở, tham quan... tại Việt Nam. Nếu chúng ta tổ chức các tour ngay từ nước ngoài thì phần thu ngoại tệ sẽ cao hơn nữa .

b - Du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất
Tính hiệu quả trong kinh doanh du lịch được thể hiện ở chỗ, du lịch là một mặt hàng “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản... theo giá bán lẻ cao hơn do người bán sẽ không tốn kém nhiều chi phí giao hàng, vận chuyển, bảo hiểm, thuế xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp cần khả năng thanh toán. “Kim ngạch” của ngành này mang lại chính là doanh thu hàng hoá và dịch vụ mà du khách sử dụng khi đến Việt Nam. Năm 2000, Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu tại chỗ ước gần 800 triệu USD, tăng khoảng 150 triệu USD. Con số này trong năm 2004 là 1.6 tỷ USD, tăng khoảng gần 25.000 tỷ. Do đó, hoạt động du lịch được đẩy mạnh sẽ đem lại một hiệu quả thiết thực về mặt kinh tế.

c - Du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài :
Ngành du lịch Việt Nam ước tính đã thu hút được 190 đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn là 4.64 tỷ USD. Năm 2006, ngành này thu hút được tổng số vốn đầu tư là 609 triệu USD, cao nhất trong giai đoạn 1999 – 2006. Trong quý I/2007, tổng vốn đầu tư vào du lịch và khách sạn vào gần 406 triệu USD, chiếm khoảng 1/5 tổng vốn được cấp của tất cả các ngành kinh tế (2.75 tỷ). Hàng loạt các dự án đầu tư xây dựng khách sạn, khu du lịch có quy mô và chất lượng cao tại các trung tâm du lịch lớn của nước ta đã được cấp phép như dự án khu nghỉ mát đa năng Đan Kia - Suối Vàng thuộc thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng do bốn tập đoàn đầu tư lớn của Nhật Bản là Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo và Limtec liên doanh đầu tư. Đây là dự án rất lớn với số vốn đầu tư lên tới 1,2 tỷ USD; dự án của tập đoàn Rockingham (Hoa Kỳ) đầu tư vào đảo Phú Quốc với tổng số vốn đầu tư 1 tỷ USD; tập đoàn Keangnam (Hàn Quốc) triển khai thực hiện xây dựng tổ hợp khách sạn 5 sao, trung tâm thương mại, văn phòng, căn hộ cao cấp trên diện tích 4.6ha tại khu Cầu Giấy; tập đoàn Riviera (Nhật Bản) đầu tư xây dựng khách sạn 5 sao tại vị trí sát trung tâm Hội Nghị Quốc Gia. Tại khu vực miền Trung, tập đoàn Banyan Tree (Singapo) đã nhận giấy phép đầu tư 276 triệu USD xây dựng khách sạn 5 sao, nhà hàng, sân golf tại khu kinh tế Chân Mây ( Thừa Thiên Huế); tập đoàn Indochina Capital đầu tư xây dựng khu du lịch biển 5 sao Ngũ Hành Sơn với 250 phòng, 150 căn hộ cao cấp và 40 biệt thự cùng nhiều dịch vụ giải trí cao cấp khác với tổng số vốn đầu tư 80 triệu USD trên diện tích 20ha ; Tập đoàn Winvest LLC (Mỹ) cũng đã nhận giấy phép đầu tư khu du lịch 5 sao Saigon Atlantic tại Vũng Tàu với số vốn đầu tư 300 triệu USD. Cũng tại Vũng Tàu, tập đoàn Plantium Dragon Empire đang khảo sát để đầu tư dự án khu du lịch vui chơi giải trí với số vốn lên đến 550 triệu USD…Điều này đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu phòng khách sạn cao cấp ở các trung tâm du lịch lớn như Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội, đặc biệt vào mùa cao điểm trong năm (điển hình như năm APEC 2006). Năm 2006, Hà Nội đã đón hơn 3 triệu lượt khách quốc tế, tăng hơn 100% so với năm 2000 nhưng số lượng phòng khách sạn so với năm 2000 chỉ tăng 35% (9.207 phòng lên 12.425 phòng). Hiện nay, Hà Nội còn 8 khách sạn 5 sao với 2.361 phòng, 6 khách sạn 4 sao với 992 phòng, 21 khách sạn 3 sao với 1.363 phòng.
Bên cạnh việc các tập đoàn nước ngoài đầu tư trực tiếp thì làn sóng đầu tư gián tiếp vào lĩnh vực du lịch - dịch vụ cũng rất sôi động. Quĩ VinaLand đã mua 70% cổ phần của Sofitel Metropole, khách sạn lâu đời, sang trọng và đắt khách nhất Hà Nội hiện nay. Còn Quỹ VinaCapital cũng không chịu thua kém khi mua 52,5% cổ phần của khách sạn 5 sao Hilton Hà Nội vào tháng 7/2006, nâng tổng số cổ phần của Quỹ tại khách sạn này lên tới 70%. Vinaland Fund cũng đầu tư thêm 43 triệu USD vào lĩnh vực khách sạn và du lịch của Hà Nội, đầu tư 31 triệu USD vào sân golf và khu vực nghỉ mát rộng 260 hecta tại thành phố Đà Nẵng. Vào tháng 4/2006, công ty xây dựng LaiSun đã vượt qua British Virgin Islands trong cuộc đấu thầu mua 63% cổ phần tại khu nghỉ mát Furama – Đà Nẵng.
Trong điều kiện lạc hậu cùng kiệt nàn và thiếu vốn đầu tư, Việt Nam rất cần hiện đại hoá nền kinh tế. Bên cạnh các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các hình thức liên doanh, liên kết với các nước ngoài trong kinh doanh du lịch cũng đã đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Hầu hết các khách sạn 5 sao ở Hà Nội đều là kết quả của hoạt động liên kết giữa Việt Nam với một số nước châu Á. Ví dụ như : Khách sạn Sofitel Metroôle là liên kết giữa Việt Nam và Singapo, Sheraton là của Việt Nam và Indonexia, Sofitel plaza là liên kết giữa Việt Nam và Malaysia, Melia Hà Nội là liên kết giữa Việt Nam và Thái Lan.

d – Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới :
Việt Nam đã ký 13 hiệp định hợp tác du lịch với các nước, có quan hệ bạn hàng với 800 hãng của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ. Nước ta đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch với Trung Quốc và tất cả các nước thành viên ASEAN, trở thành thành viên chính thức của hiệp hội Du lịch Đông Nam á ( ASEANTA ); khôi phục quan hệ hợp tác du lịch truyền thống với liên bang Nga; phát triển quan hệ hợp tác du lịch với Pháp; bước đầu xây dựng quan hệ hợp tác du lịch với Hoa Kỳ.

e - Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triển đường lối giao
thông quốc tế
Một ngành kinh tế lớn, ngành du lịch, có liên quan trực tiếp tới văn hóa. Những di sản văn hóa trên lãnh thổ một quốc gia là một chủ bài lớn để thu hút du khách nước ngoài, và từ đó nảy nở những mối giao thương khác. Mặt khác, khi bạn bè hay đối tác nước ngoài tới tìm hiểu đất nước ta, tìm hiểu con người, xã hội và các cơ hội làm ăn với Việt Nam, dĩ nhiên điều tối thiểu là họ phải được tiếp đón với những chuẩn mực văn minh hiện đại. Nhưng như thế chưa đủ. Những ứng xử, những sản phẩm có tính văn hóa cao ngoài việc thu hút và giữ chân du khách, tranh thủ cảm tình của họ, còn góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam tới những nhà đầu tư tiềm năng dù đôi khi miếng bánh lợi nhuận chưa đủ hấp dẫn...

f - Du lịch như đầu mối “xuất nhập khẩu” ngoại tệ, phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế :
Hoạt động du lịch được đẩy mạnh và rộng khắp đã đem lại một hiệu quả thiết thực về kinh tế. Chỉ tính riêng trong 9 tháng của năm 2000, Chương trình đã thực hiện xuất khẩu tại chỗ ước đạt trên 800 triệu USD, tăng khoảng 150 triệu USD.

3. Đối với du lịch quốc tế thụ động :
Khác với du lịch quốc tế chủ động, du lịch quốc tế thụ động là một hình thức nhập khẩu đối với đất nước có khách đi ra nước ngoài. Cái mà họ nhận được đó chính là các “lợi ích vô hình”. Đó là nâng cao hiểu biết, học hỏi kỹ thuật mới, củng cố sức khỏe…của người dân. Nhưng nếu đi với mục đích kinh doanh, du lịch quốc tế thụ động có tác động gián tiếp đến nền kinh tế bởi nó là hình thức đem tiền đi tiêu nhưng họ có thể thu về là bản hợp đồng đầu tư thu lợi nhuận ….

4. Các tác động khác về mặt kinh tế của việc phát triển hoạt động kinh doanh du lịch nói chung :

a – Khu vực du lịch đã mang lại cho Việt nam cơ hội to lớn trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp chuyển sang một nền kinh tế dựa vào dịch vụ :
Nhiều gia đình dân tộc cùng kiệt khó trước kia chỉ sống bằng nông nghiệp nay đã được cải thiện đời sống nhờ du lịch. Cụ thể như, người dân tộc Hmông Sapa trước đây là một đơn vị kinh tế thuần nông. Cơ cấu kinh tế truyền thống của Hmông ở Sapa gồm 3 bộ phận cấu thành là trồng trọt (lúa, ngô, thảo quả), hái lượm và nghề thủ công, trong đó chủ yếu là trồng trọt. Hầu hết mức sống, nguồn thu nhập của người làm nhờ vào trồng trọt và chăn nuôi, còn nghề thủ công chỉ đóng vai trò phụ và luôn phụ thuộc vào trồng trọt nên cuộc sống thiếu thốn cùng kiệt khổ. Điều kiện trồng trọt lại khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều lao động. Sapa lại không có điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp. Nhưng du lịch phát triển, các làng Hmông có cảnh quan đẹp, giữ được bản sắc văn hóa trở thành những điểm du lịch hấp dẫn. Do đó, đời sống kinh tế của người Hmông được cải thiện. Họ chuyển sang sản xuất hàng thổ cẩm, đồ trang sức, dẫn khách du lịch...thay vì làm nông nghiệp như trước đây. Hiện nay, tỉ lệ gia đình người Hmông tham gia hoạt động du lịch chiếm hơn 90%. Hay như ở bản Lác, một bản của người dân tộc Thái ở Mai Châu – Hòa Bình. Từ một làng dân tộc bình thường, do nhận thấy tiềm năng và có định hướng phát triển đúng đắn nên giờ đây bản Lác và một số bản xung quanh đã trở thành làng du lịch. Đời sống dân bản được nâng cao,giải quyết công ăn việc làm cho phần lớn người lao động tại đây. Khách du lịch đến đây được sống trong nhà sàn, ăn thịt thú rừng, học cách dệt vải của người Thái… nét văn hóa truyền thống không chỉ được lưu giữ, bảo tồn mà còn được giới thiệu cả trong và ngoài nước.

b – Du lịch làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch, tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng :
Hoạt động du lịch phát triển, tạo nguồn ngân sách cho các địa phương từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn. Ở các địa phương có làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để phát triển kinh tế bằng việc giới thiệu bán các sản phẩm thủ công. Không chỉ bán cho các du khách đến thăm quan mà đây còn là cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu.

c - Du lịch phát triển thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo :
Trước hết, đây là hoạt động kinh doanh cần nhiều sự hỗ trợ liên ngành. Nhiều khu vực khác cũng được hưởng lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và

- Du lịch phát triển đã làm thay đổi một số nét truyền thống của
một dân tộc
VD: ảnh hưởng đến một số thiết chế xã hội của người Hmông ở Sapa
+ Gia đình của người Hmông ở Sa Pa có sự tác động mạnh mẽ của du lịch và kinh tế thị trường. Sự tác động này làm biến đổi cả về loại hình gia đình cũng như chức năng, sự phân công lao động vai trò giới trong gia đình. Gia đình người Hmông Sa Pa trước đây là một đơn vị kinh tế thuần nông. Cơ cấu kinh tế truyền thống của người Hmông ở Sa Pa gồm 3 bộ phận cấu thành là trồng trọt và hái lượm, nghề thủ công. Hiện nay do du lịch phát triển, các làng Hmông ở gần thị trấn có cảnh quan đẹp, giữ được bản sắc văn hoá trở thành những điểm du lịch hấp dẫn. Do đó du lịch đã tác động làm biến đổi đời sống kinh tế của các gia đình người Hmông. Tổng thu nhập bình quân mỗi hộ gia đình người Hmông Sa Pa làm nông nghiệp 1 năm từ 8 đến 10 triệu đồng/năm nhưng riêng về du lịch, mức thấp nhất cũng đạt 10 - 16 triệu VNĐ/năm. Số gia đình làm du lịch có mức thu nhập gấp từ 2 lần đến 2,5 lần gia đình thuần nông. Vì vậy cá gia đình đều chuyển sang làm du lịch.
+ Gia đình người Hmông ở Sa Pa đầu thập kỷ 70 thế kỷ 20 có loại hình gia đình phụ hệ, 3 thế hệ trở lên chiếm tỷ lệ khá cao. Thậm chí ở Sa Pa còn tồn tại một số gia đình lớn, có từ 30 đến 40 người. Hiện nay, gia đình người Hmông ở Sa Pa lại chủ yếu là loại hình gia đình gồm 2 thế hệ. Điều đáng quan tâm là hầu hết các thành viên gia đình mở rộng đều có nguyện vọng muốn tách hộ. , nhằm để tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tách hộ, gia đình hạt nhân phát triển là do điều kiện kinh tế đã thay đổi. Trong kinh tế nương rẫy, việc phát rẫy, khai ruộng bậc thang cần nhiều nhân công. Các gia đình có đông lao động sẽ có mức thu nhập cao hơn. Nhưng hiện nay với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các dịch vụ xuất hiện làm tăng nguồn thu của nhiều hộ gia đình, đồng thời lại không cần đông người, không cần nhiều sức lao động cơ bắp. Một gia đình có một người bán hàng rong, chạy xe ôm thu nhập gấp 1,5 đến 2 lần gia đình thuần nông.
+ Du lịch tạo ra một loạt ngành nghề mới làm thay đổi mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Trong gia đình truyền thống, với nền kinh tế nương rẫy, vai trò người chồng, người chủ gia đình hạt nhân được đề cao. người chồng phải đảm nhiệm toàn bộ công việc nặng nhọc của nương rẫy (làm đất, cày nương, thu hoạch, khai ruộng bậc thang), làm nghề rèn đúc, đan lát... Trong gia đình hạt nhân, việc cày nương chỉ có người chồng đảm nhiệm. . Phụ nữ ít có cơ hội được bàn bạc, quyết định các vấn đề quan trọng.
Nhưng hiện nay, phụ nữ tham gia vào hoạt động dịch vụ du lịch khá đông. người con gái tham gia sản xuất thổ cẩm, bán hàng rong. Thu nhập của họ khá cao. Phụ nữ tham gia dẫn khách du lịchMột người phụ nữ tham gia dịch vụ du lịch có thu nhập bằng hay hơn cả gia đình sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, vai trò của phụ nữ trong gia đình được nâng cao. Du lịch góp phần quan trọng vào vấn đề bình đẳng nam nữ.Trong gia đình người Hmông trước đây, chỉ có người chồng mới có quyền giữ tiền. Nhưng hiện nay đã xuất hiện một số trường hợp người vợ quản lý tiền hay xu hướng chung là cả vợ và chồng đều có tiền riêng, đều quản lý tiền.Trong xã hội truyền thống người vợ đóng vai trò đối nội, đảm đang việc nhà, nội trợ, chăm sóc chồng con. Nhưng hiện nay, người vợ cũng tham gia các công việc “đối ngoại”. đi họp thôn thay chồng, tiếp khách khi khách đến nhàNhư vậy, người phụ nữ Hmông tham gia các hoạt động du lịch, mở rộng sự giao tiếp. hiểu biết đã dần dần thoát khỏi sự đóng khung trong không gian hạn hẹp của gia đình mà đã vươn tới không gian xã hội.
Quan hệ bố mẹ và con cái trong gia đình người Hmông cũng có sự biến đổi. hiện nay, khi gia đình ba thế hệ này giảm nhanh chóng, bố mẹ khó có điều kiện chăm sóc con cái. người mẹ bên cạnh việc nương rẫy phải mua và bán hàng lưu niệm. người mẹ bán hàng rong phải đi từ sáng sớm đến tối khuya mới về, thậm chí ở lại thị trấn hàng tuần mới về nhà một lần. Vì vậy, trẻ em ít được bố mẹ quản lý, các trẻ em bận làm nhiều việc nhà, tham gia dịch vụ du lịch. Do đó chất lượng học tập của các em rất thấp. Nguyên nhân bỏ học để có thời gian tham gia các hoạt động du lịch chiếm tỷ lệ khá cao chiếm 51,7%.
Ảnh hưởng của du lịch đến quan hệ dòng họ. Trong xã hội truyền thống người Hmông, quan hệ dòng họ được đề cao. Nhưng hiện nay, dưới sự tác động của du lịch, quan hệ dòng họ đang có sự biến đổi. Trước hết, vai trò của trưởng dòng họ “Hổ Pấu” có sự thay đổi. Trước kia, người trưởng dòng họ phải là những người nhiều tuổi, có kinh nghiệm làm ăn, có trách nhiệm cao với dòng họ. Hiện nay, lớp trẻ làm ăn giỏi, thích ứng với môi trường du lịch hay tham gia dịch vụ du lịch ngày càng đông (làm xe ôm, dẫn khách leo núi, mua đồ lưu niệm...). Có điều kiện kinh tế, giúp đỡ một số thành viên trong làng, trong dòng họ khi họ khó khăn , nên một số người trẻ tuổi trong dòng họ, trong làng đã trở thành người có tiếng nói “trọng lượng” trong công việc chung của dòng họ. Hiện nay, việc lựa chọn người làm trưởng dòng họ đã xuất hiện các trường hợp coi trọng người giỏi làm kinh tế tham gia hoạt động du lịch có thu nhập cao. hiện nay, vai trò của trưởng họ về kinh tế cũng suy giảm. Chỉ có một số trưởng dòng họ am hiểu về thị trường sản xuất, tham gia dịch vụ du lịch mới được các gia đình học hỏi, xin ý kiến.
Trong quan hệ dòng họ, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau về mặt kinh tế vẫn còn nhưng không hẳn là nghĩa vụ của mọi thành viên như trước đây. Do tính chất cạnh tranh khách hàng, mua bán, trong dòng họ thường xảy ra mâu thuẫn, va chạm, mất đoàn kết giữa các thành viên hơn thời kỳ sản xuất nông nghiệp thuần tuý. Tất nhiên sự tượng trợ giúp đỡ trong dòng họ vẫn còn nhưng chuyển sang hình thức mới. Hình thức giúp đỡ nhau bằng tiền nhiều hơn giúp đỡ nhau bằng hiện vậy. Như vậy sự cố kết dòng họ về mặt tín ngưỡng, xã hội nổi trội hơn nhiều so với mặt kinh tế. Sự cố kết về kinh tế suy giảm, chỉ còn ở phạm vi các gia đình có quan hệ họ hàng ruột thịt.
Du lịch tác động đến quan hệ cộng đồng làng về nhiều mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong xã hội nông nghiệp, cư dân thuần nông, vai trò của già làng được đề cao. Nhưng hiện nay, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, già làng ít có điều kiện tiếp cận thông tin mới. Việc tiếp cận thông tin mới hầu hết do lớp trẻ đảm nhiệm. Do đó, vai trò của già làng trong các làng làm dịch vụ du lịch giảm sút. Lớp trẻ ít tham khảo kinh nghiệm của người già về kinh tế, chỉ tham khảo các già làng về các vấn đề nếp sống văn hoá, tín ngưỡng. Ngược lại với vai trò của già làng, vai trò của trưởng làng được đề cao hơn trước rất nhiều. hiện nay, âm hưởng cuộc sống sôi động thường xuyên dội xuống làng. Nếp sống tĩnh lặng của làng bị phá vỡ. Với việc xây dựng làng thành các điểm du lịch, với việc thực hiện các dự án làm đường giao thông liên thôn, trồng rừng, lập các tổ sản xuất phục vụ du lịch... đòi hỏi sự điều hành của trưởng làng, sự tham gia của toàn dân làng ngày càng lớn. Trưởng làng phải tổ chức các cuộc họp chung dân làng thường xuyên nhằm bàn bạc phân công dân làng tham gia các chương trình dự án. Đồng thời, trưởng làng phải thường xuyên kiểm tra đôn đốc các gia đình làm các việc công của làng, chấp hành quy ước chung, quy hoạch lại cửa hàng, khôi phục nghề thủ công sản xuất đồ lưu niệm, tổ chức các sinh hoạt văn nghệ phục vụ du khách, tăng nguồn thu... Chức năng, nhiệm vụ của trưởng làng phức tạp, vai trò của trưởng làng được đề cao hơn trước. Do đó tiêu chuẩn lựa chọn trưởng làng cũng thay đổi. Trưởng làng phải là những người năng động, có trình độ học vấn nhất định, có khả năng tiếp nhận và phổ biến thông tin. Tốc độ cuộc sống đã thay đổi nên yếu tố tuổi cao, giàu kinh nghiệm ít trở thành tiêu chí quan trọng để chọn trưởng làng, xuất hiện xu hướng trẻ hoá trưởng


IV – Một số biện pháp khắc phục:

Đầu tư, xây dựng một số khu du lịch, khu vui chơi giải trí.
Tuyên truyền quảng bá các sản phẩm du lịch việt nam trên các thị trường gửi khách trọng điểm, thông qua các thay mặt du lịch quốc gia, các hãng lữ hành quốc tế.
Nâng cao chất lượng phục vụ khách , Xây dựng các chương trình du lịch hấp dẫn, giá cả hợp lý, coi giá dịch vụ cũng là một trong các yếu tố qyuết định của cạnh tranh., , tạo sự thoải mái, tiện nghi đối với khách trong thời gian lưu trú, nâng cao chất lượng phục vụ trên cả 3 góc độ: Thái độ phục vụ, tiện nghi và hàng hoá phục vụ trong khách sạn cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách ; tạo thêm uy tín và sức thu hút khách trở lại nhiều lần.
Cải thiện cơ bản các thủ tục liên quan đến chuyến đi du lịch của khách du lịch quốc tế. tạo điều kiện dễ dàng cho khách du lịch nội địa đi thăm quan du lịch trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng các phương tiện vận chuyển khách du lịch để đảm bảo an toàn cho khách.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành du lịch có đủ năng lực trình độ đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch trước mắt cũng như lâu dài. Đào tạo lại và bổ túc trình độ nghiệp vụ tay nghề cho lực lượng lao động hiện có để đáp ứng được nhu cầu mới.
Coi trọng phát triển du lịch sinh thái bảo vệ môi trường.
Đầu tư vào công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tập trung vào các dự án đầu tư ở các khu du lịch trọng điểm quốc gia, khu vui chơi giải trí, làng văn hoá du lịch các dân tộc Việt nam, các phương tiện vận chuyển khách du lịch.
Đầu tư cho kết cấu hạ tầng đến các diểm du lịch, khu du lịch, đầu tư vào kết cấu hạ tầng trong các khu du lịch, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách đến các khu du lịch, góp phần nâng cao chất lương dịch vụ du lịch Việt nam.
Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, nghiên cứu thị trường để nâng cao chất lượng và hiệu quả cho các hoạt động du lịch.
Đầu tư cho việc bảo vệ, tôn tạo, khai thác và phát triển, khai thác các nguồn tài nguyên du lịch, môi trường.

V – Mục tiêu của ngành du lịch trong những năm tới:

Bên cạnh việc đề ra các biện pháp để khắc phục những khó khăn và tiêu cực còn tồn tại trong ngành du lịch thì Bộ văn hóa, thông tin và du lịch còn đề ra các mục tiêu của ngành du lịch trong những năm tới, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO), nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa du lịch nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh, mạnh và bền vững, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu đã đề ra trong Chiến lược Phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Cụ thể như sau:

* Mục tiêu của ngành du lịch:

- Về đón khách quốc tế: phấn đấu đến năm 2010, Du lịch Việt Nam sẽ đón được 5,5-6,0 triệu lượt khách quốc tế với nhịp độ tăng trưởng trung bình đạt 11,4%, 25 triệu lượt khách du lịch nội địa.
- Về thu nhập du lịch: phấn đấu năm 2010, doanh thu du lịch đạt 4,0 - 4,5 tỷ USD, đưa tổng sản phẩm du lịch (GDP) năm 2010 đạt 5,3% tổng GDP của cả nước với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11,0 – 11,5%/năm.
- Về phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: điều tra, lập quy hoạch và đầu tư xây dựng và hoàn thiện 4 khu du lịch tổng hợp quốc gia và 16 khu du lịch chuyên đề quốc gia; nâng cấp các tuyến điểm du lịch quốc gia và quốc tế, các khu du lịch có ý nghĩa vùng và địa phương; đầu tư xây mới và nâng cấp hệ thống khách sạn, phấn đấu đến năm 2010 có trên 250.000 phòng khách sạn, đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách.
- Về tạo việc làm cho xã hội: đến năm 2010 Du lịch tạo 1,4 triệu việc làm cho xã hội, trong đó có 350.000 việc làm trực tiếp.
- Phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu trong khu vực.

C - Kết luận

Du lịch đã trở thành một hiện tượng ngày càng đa dạng đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, lý sinh, sinh thái và thẩm mỹ. Du lịch là nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm của thế giới, chiếm tới 1/10 mỗi loại, đồng thời đầu tư cho du lịch và các khoản thu từ thuế liên quan tới du lịch tương ứng cũng tăng cao. Những sự gia tăng này cùng với các chỉ tiêu khác của du lịch đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách vững chắc và như vậy du lịch sẽ là đầu tàu kéo nền kinh tế thế giới trong thế kỷ XXI. Vì vậy, để đất nước Việt Nam phát triển theo kịp thế giới cần có cái nhìn mới, tổng thể và


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
N Nhờ tải giúp em Thực trạng và các yếu tố tác động đến việc làm thêm của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Luận văn thạc sĩ) - Phan Thị ThuThảo Khởi đầu 3
D Ứng dụng mô hình DEA và mô hình Hồi quy Tobit để kiểm định các nhân tố tác động đến mức độ hiệu quả của các NHTM Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Tác động của các yếu tố căng thẳng trong công việc đến sự gắn kết của nhân viên nghiên cứu tình huống tại công ty KODA Sài Gòn Y dược 0
D Nghiên cứu các nhân tố tác động đến ý định mua sắm trực tuyến (online shopping) của người tiêu dùng Luận văn Kinh tế 0
D Các yếu tố tác động đến quyết định mua hàng trên sàn thương mại điện tử shopee của sinh viên chất lượng cao Trường Đại học Ngân hàng Tp.HCM, 2021 Luận văn Kinh tế 0
D Yếu tố tác động đến văn hóa doanh nghiệp của các công ty du lịch tại việt nam Văn hóa, Xã hội 0
D Sự tác động của các loại hình giải trí đến đời sống thanh niên Việt Nam Văn hóa, Xã hội 0
D Nghiên cứu tác động của cam kết lao động trong hiệp định thương mại EVFTA đến quan hệ lao động tại các doanh nghiệp ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Đánh giá các nhân tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng đối với grabbike Luận văn Kinh tế 0
D PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CỔ TỨC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN GIÁ TRỊ THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top