thuongbanana

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Ngôn ngữ học và thi học Roman Jakobson

Roman Jakobson (1896-1982) là nhà ngôn ngữ học gốc Nga, định cư ở Mỹ. Từ 1915, Ông đã tích cực đóng góp vào trường phái hình thức Nga, và là một trong ba lãnh tụ Câu Lạc Bộ Ngôn Ngữ học Praha. Năm 1960 tại hội nghị liên ngành về Phong cách họp tại trường đại học Indiana, trong bài diễn văn bế mạc Roman Jakobson đã phác họa những mối quan hệ giữa lí luận thi ca và ngôn ngữ học. Ý kiến đặc sắc của Roman Jakobson đã được nhiều công trình nghiên cứu lí luận thi ca và ngôn ngữ học trích dẫn. Bài diễn văn đã được in trong tập kỷ yếu Style in Language do T.A Sebeok biên tập (New York 1960).
Dưới đây là bản tóm tắt nội dung chủ yếu ý kiến của Roman Jakobson:
Ngôn ngữ phải được nghiên cứu trong tất cả các chức năng khác nhau của nó. Trước khi bắt tay vào chức năng thi ca, ta phải xác định xem vị trí của nó giữa các chức năng khác của ngôn ngữ như thế nào. Để có được một khái niệm về các chức năng đó, cần trình bày sơ lược những nhân tố cấu thành của mọi sự kiện ngôn ngữ, của mọi hành động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Người gửi gửi một thông điệp cho người nhận, để đạt hiệu quả, cần:
1) Thông điệp phải có một bối cảnh được nó bàn đến - gọi la chu cảnh- bối cảnh này có thể được người nhận lĩnh hội, nó có tính chất ngôn ngữ hay có thể ngôn ngữ hóa.
2) Thông điệp đòi hỏi một cái mã chung cho cả người gửi và người nhận (cho người lập mã và người giải mã thông điệp), có thể là chung toàn bộ hay ít nhất cũng chung một phần
3) Thông điệp đòi hỏi một sự tiếp xúc, một đường kênh thể chất và một sự tiếp cận tâm lý giữa người gửi và người nhận. Sự tiếp xúc này cho phép họ xác lập và duy trì sự giao tiếp.
Những nhân tố hữu cơ khác nhau này của việc giao tiếp ngôn ngữ có thể trình bày bằng một lược đồ như sau:

Chu cảnh

Người gửi ……... Thông điệp ……….. Người nhận

Tiếp xúc



Sau đây chúng ta sẽ xem xét từng chức năng cụ thể tương ứng với từng nhân tố trên:
1. trong sáu nhân tố này, mỗi nhân tố đều đẻ ra một chức năng ngôn ngữ khác nhau. Sự khác nhau giữa các thông điệp không phải là cái địa vị độc quyền của chức năng này hay chức năng khác, mà chính là ở những sự khác nhau về tôn ti thứ bậc giữa các chức năng. Cấu trúc ngôn ngữ của một thông điệp lệ thuộc trước tiên vào cái chức năng chiếm ưu thế. Nhưng dù cho việc biểu thị đối tượng, việc hướng về chu cảnh – hay là cái chức năng được gọi là chức năng “biểu thị “, “ nhận thức “- là nhiệm vụ chủ yếu của nhiều loại thông điệp, thì sự tham gia thứ yếu của các chức năng khác trong những thông điệp như vậy vẫn phải được nhà ngôn ngữ học coi trọng.
2. Chức năng “ bày tỏ “ hay “ biểu cảm “ vốn tập trung vào người gửi, nhằm trực tiếp biểu đạt thái độ của người nói với cái đang được nói đến. Nó nhằm bày tỏ một cảm xúc nào đấy, có thể là thật hay giả vờ. Cái tầng lớp thuần túy biểu cảm trong ngôn ngữ được thay mặt bằng các thán từ. Một thán không phải là một yếu tố của câu, mà là một đơn vị tương đương với một câu trọn vẹn. Một tiếng “ Chậc! “ có ý nghĩa tương đương với cả một câu tán thán dài. Chức năng biểu cảm, được thể hiện trọn vẹn trong các thán từ, ít nhiều cũng they nhuốm vào tất cả những lời nói của chúng ta, ở các bình diện ngữ âm, ngữ pháp và từ vị. Nếu ta phân tích ngôn ngữ về phương diện thông báo mà nó chuyển đạt, ta không có quyền bó hẹp khái niệm trong mặt nhận thức của ngôn ngữ. Một người nói, trong khi sử dụng những yếu tố biểu cảm để tỏ ý mỉa mai hay tức giận, rõ ràng là có chuyển đạt một thông báo nào đấy. Nếu ta đồng ý với Saporta mà cho rằng sự khác nhau về biểu cảm là những yếu tố phi ngôn ngữ học “ thuộc về cách thực hiện thông điệp chứ không thuộc về bản thân thông điệp “ thì là ta đã lược qui một cách võ đoán dung lượng thông báo của các thông điệp.
Ví dụ: Một cựu diễn viên của nhà hát Stanislavski ở Mạc Tư Khoa có kể lại rằng khi ông qua kỳ sát hạch, nhà đạo diễn nổi tiếng đã yêu cầu ông rút ra 40 thông điệp khác nhau từ 2 chữ “ segodnja vecherom “ (tối nay) bằng cách thay đổi các sắc thái biểu cảm. Ông bèn dựng lên danh sách khoảng 40 tình huống cảm xúc khác nhau và đọc 2 chữ trên phù hợp với từng tình huống cụ thể. Trong khuôn khổ những cuộc nghiên cứu của mình, chúng tui đã yêu cầu người diễn viên này lặp lại cuộc sát hạch này. Ông liền ghi ra giấy khoảng 50 tình huống có thể nói được 2 chữ này. Phần lớn các thông điệp đều được người nghe nhận diện đúng đắn và chi tiết. Hơn nữa, có thể đem phân tích ngôn ngữ học tất cả các biện pháp biểu cảm thuộc loại này.
3. Việc hướng về người nhận, tức chức năng kêu gọi, có được cách diễn đạt ngữ pháp thuần khiết nhất của nó là hô cách và thức mệnh lệnh. Những câu mệnh lệnh có những điểm khác biệt về căn bản so với các câu khẳng định: các câu khẳng định có thể đem kiểm nghiệm tính chân xác, còn các câu mệnh lệnh thì không.
Ví dụ: Trong vở kịch Dòng suối của O’Neil, khi nhân vật Nanô nói ( với giọng sai khiến dữ dội) “ Uống đi “, thức mệnh lệnh không thể gợi cho người nghe câu hỏi “ điều đó có đúng không? “, trong khi câu hỏi này hoàn toàn có thể đặt ra sau những câu như: ta uống, ta sẽ uống, ta không uống. Hơn nữa, các câu khẳng định có thể chuyển thành những câu nghi vấn như: Người ta có uống không? Liệu người ta sẽ uống hay không?
Ngoài 3 chức năng vừa kể trên tương ứng với ngôi thứ nhất - người gửi, ngôi thứ 2 - người nhận, ngôi thứ 3 – người, vật được nói đến. Còn có thể nêu một số chức năng ngôn ngữ phụ trợ như chức năng ma thuật hay phù chú : có thể quan niệm như là cách chuyển một “ ngôi thứ 3 “ vắng mặt hay vô tri vô giác thành người nhận một bức thông điệp có tính chất kêu gọi.
Ngoài ra, có 3 nhân tố cấu thành khác của sự giao tiếp ngôn ngữ, tương ứng với 3 nhân tố này lại có 3 chức năng ngôn ngữ:


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Re: [Free] Ngôn ngữ học và thi học Roman Jakobson

Ad cho mình xin link tải tài liệu này với ạ. xin cảm ơn
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top