thang_1441986

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
CẢM NHÂN VÀ SUY NGHĨ VỀ TẦM NHÌN KINH ĐIỂN
TRONG HƯỚNG ĐI CỦA NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN


GS.TSKH Nguyễn Lai

Trước hết, có thể nói ngay được rằng ngôn ngữ học tri nhận đang muốn đưa lại một bức tranh mới sáng tỏ và sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ - một phạm trù vốn nằm trong chính bản chất nhận thức của ngôn ngữ . Với tham vọng chính đáng trên, dù như thế nào, ngôn ngữ học tri nhận không thể thoát li hay xa lánh cơ chế ba mặt từ chiều sâu vốn quen thuộc đối với quá trình nghiên cứu theo hướng kinh điển từ trước. Đó là hoạt động giao tiếp và nhận thức của con người được định hướng vào đời sống thực tiễn thông qua ngôn ngữ.

Chỗ khác của ngôn ngữ học tri nhận có thể dễ dàng chỉ ra ở đây trước hết có lẽ là tầm nhìn mở về cách tạo nghĩa. Cụ thể, đó là tầm nhìn về cách tạo nghĩa được xác lập dựa trên mối liên hệ trực tiếp với quá trình giao tiếp theo một cơ chế tự nhiên và thông thoáng nhất trong môi trường hoạt động xã hội. Khi chỉ ra nét dễ thấy về tầm nhìn mở này của ngôn ngữ học tri nhận, dĩ nhiên, chúng ta cũng không nên quên rằng, từ lâu, Mác đã nói : ” Sự sản sinh ra tư tưởng, biểu tượng và ý thức trước hết gắn liền một cách trực tiếp và mật thiết với hoạt động vật chất và giao dịch của con người…Ở đâu có giao tiếp thi ở đó có ngôn ngữ…Ngôn ngữ sinh ra là do nhu cầu cần thiết phải giao dịch với người khác (tui nhấn manh : N.L.)” (Marx, Engels, Lenin bàn về ngôn ngữ [1,8 ] .

Những nhà ngôn ngữ học tri nhận ngày nay hình như ít ai trực tiếp nhắc đến tinh thần luận đề này của Mác. Dù trên thực tế, vấn đề ngữ nghĩa mà ngôn ngữ học tri nhận đặt ra ở đây, nghĩ cho cùng, chính cũng là thứ ngữ nghĩa được khảo sát tại hiện trường giao tiếp xã hội : một thứ ngữ nghĩa được định hướng từ giao tiếp xã hội, mang theo trong nó một động lực xã hội rất mạnh ; đồng thời về mặt hình thành, nó cũng chịu áp lực xã hội rất mạnh.

Chính tiền đề trên của Mác giúp ta hiểu sâu sắc thêm, vì sao khi xét bản chất ngôn ngữ từ sự hình thành của nó, Mác tuyệt đối không bao giờ có sự tách biệt theo hướng siêu hình giữa ngôn ngữ và lời nói . Và dĩ nhiên, từ đó, nhin rộng ra, ta có thể hiểu thêm được hệ quả tất yếu về một quy luật chung : Nếu nhờ giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện đối với con người thì, mặt khác, chính cũng nhờ sự chủ động sử dụng ngôn ngữ của con người qua quá trình giao tiếp xã hội một cách không tư biên, mà bản chất xã hội của ngôn ngữ ngày càng được củng cố, rộng mở và phát triển.

Tuy không trực tiếp nêu rõ luận điểm về động lực giao tiếp xã hội của ngôn ngữ này ở Mác nhưng, theo tôi, xét về chiều sâu, không thể nói là xu hướng tiếp cận mới về nghĩa “không thừa nhận sự phân biệt giữa nghĩa học và dụng học” cũng như “ không tách rời giữa ý nghĩa bách khoa và nghĩa ngữ cảnh” của các nhà ngôn ngữ học tri nhận là hoàn toàn không liên quan đến cách lí giải về động lực sâu xa của sự ra đời và phát triển ngôn ngữ từ luận đề giao tiếp xã hội trên của Mác.

Và một điều dễ thấy tiếp theo nữa của những nhà ngôn ngữ học tri nhận. Đó là tầm nhìn về sự hình thành ngôn ngữ gắn liền với sự nhấn mạnh vấn đề cơ thể hóa ngôn ngữ thông qua quá trình trải nghiệm và tương tác của con người.

Về phương diện này, một số người nghiên cứu ngôn ngữ theo hướng tri nhận xác định như sau “… Lí luận truyền thống cho rằng khái niêm và lí trí không có quan hệ gì với tri giác và hành vi cũng như với hệ thống cảm nhận tri giác của con người. Nếu đúng vậy thì khái niệm có tính trừu tượng không có quan hệ gì với yếu tố cơ thể con người, từ đó sẽ không có bất cứ mối liên hệ nào với hệ thống thần kinh cảm nhận tri giác.Nhưng Lakoff và những người ủng hộ ông thì cho rằng khái niệm tồn tại trong não bộ con người có quan hệ nhất định với cơ thể con người…”[6,74[. Theo tôi, cách xác định này có lẽ chưa thật hoàn toàn thỏa đáng. Phải chăng cũng nên hiểu rằng, về cơ bản, luận điểm của Lakoff ở đây cũng không phải hoàn toàn xa lạ với luận điểm chính thống mang tính kinh điển của những nhà mác xit chân chính về sự hình thành ngôn ngữ. Nên nhớ lại rằng, cũng như Mác đối với luận điểm hình thành ngôn ngữ từ tiền đề giao tiếp, Engels - người cùng thời với Mác - đã từ rất lâu phát biểu về sự hình thành ngôn ngữ trong mối liên hệ với các giác quan và bộ óc một cách hết sức rõ ràng như sau : “…Mối liên hệ hữu cơ giữa các giác quan và bộ óc trong quá trình phát triển nhận thức từ thấp đến cao của con người là không thể chia tách một cách siêu hình. Hoạt động năng động của các giác quan là tiền đề quan trọng cho quá trình hình thành tư duy trừu tượng của bộ óc “ [1,20[. Về phương diện này, Mác cũng đã có những phát biểu coi trọng vai trò của các giác quan khi ông nhấn mạnh : Trong thực tiễn, các giác quan đã trở thành những nhà lí luận…Thậm chí, Mác còn xác định rõ ràng hơn “…Đặc điểm riêng thuộc về sức mạnh của bất cứ con người nào cũng chính là cái bản chất riêng của họ…Và vì vậy, không phải chỉ riêng trong tư duy mà cả bằng các giác quan, con người tồn tại rõ rệt trong thế giới khách quan “[1,46].Tại đây, nếu nhấn mạnh sự hình thành ngôn ngữ không thể tách rời với sự trải nghiệm của con người thông qua năng lực các giác quan và bộ óc theo cách diễn đạt của những nhà ngôn ngữ học tri nhận thì, ở đây, rõ ràng, về cơ bản. không phải không có một sự trùng hợp rất dễ thấy giữa cách nhìn của các nhà triết học kinh điển mác xit chân chính và cách nhìn của những nhà ngôn ngữ học tri nhận.

Khi cảm nhận được những chỗ trùng hợp có thể có từ chiều sâu triết học của những nhà ngôn ngữ học tri nhận với tầm nhìn kinh điển của những nhà triết học mác xit, phải chăng chúng ta có thể xác định được rằng : Ngôn ngữ, dù biến động và phát triển như thế nào, và ngôn ngữ, dù được khai thác theo hướng nào, nếu không bị xuyên tạc thì nó không thể thoát li khỏi những quy luật mang tính chân lí được phát hiện đúng đắn theo hướng bản thể luận từ chiều sâu triêt học của phương pháp luận mác xít

Mặt khác, như chúng ta biết, xem xét cơ chế tạo nghĩa từ quá trình giao tiếp vốn là một hướng đi không tư biện. Hướng nhìn này ngày càng được rộng mở và trở nên cập nhật đối với quá trình nghiên cứu ngôn ngữ từ nhiều thập kỷ trở lại đây. Như vậy, từ trong chiều sâu của đường hướng gọi là mới hiện nay của các nhà ngôn ngữ học tri nhận – nghĩ cho cùng – không phải là không mang theo trong nó một nét kế thừa nào đó nằm sâu trong xu thế điều chỉnh chung đang được đặt ra đối với quá trình nghiên cứu …

Xét về phương diện này, đây cũng là một điểm cần lưu ý tiếp theo của những nhà ngôn ngữ học tri nhận…”Ngôn ngữ học tri nhận đã thể hiện một cách tiếp cận mới về nghĩa” [5,8]…Và , trong tính hiện thực của nó, khi đi sâu vào quá trinh thực thi, ngôn ngữ học tri nhận xác định cụ thể một tiền đề chung cần được đặc biệt quan tâm.. “Tuy thừa nhận ý nghĩa là một bộ phận của ngôn ngữ song, với các nhà ngôn ngữ học tri nhận, ý nghĩa khi gắn với kí hiệu, thi kí hiệu chỉ được hiểu như là một nhân tố có vai trò kích hoạt cho quá trình tạo nghĩa trong giao tiếp”[5,8].

Khi đặt vấn đề tạo nghĩa trong quá trình giao tiếp theo hướng “ kích hoạt” như trên thì một loạt hệ quả tương ứng về mặt cơ chế tạo nghĩa gắn với quá trình giao tiếp được các nhà ngôn ngữ học tri nhận phát hiện một cách nhất quán theo những góc độ khác nhau . Chẳng hạn: a) Nghĩa của một từ nào đó được kiến tạo chỉ sau khi toàn bộ ý nghĩa của phát ngôn được xác định ; b) Ý nghĩa tổng thể của phát ngôn có vai trò xác định ý nghĩa ngữ cảnh của từ ngữ; c) Quá trình kiến tạo nghĩa ngữ cảnh được tiến hành theo cách thức từ tổng thể đến bộ phận, v.v…[5,8].

Rõ ràng đấy là những hệ quả đúng đắn. Và những hệ quả đúng đắn này được rút ra từ sự trải nghiệm mang tính quy luật của những nhà ngôn ngữ học tri nhận đối với quá trình tạo nghĩa tại hiện trường giao tiếp. Tại đây, nhìn tổng quan có thể hiểu được rằng nghĩa của kí hiệu xuất hiện trong cơ chế tương tác biện chứng giữa tổng thể và bộ phận là hệ quả của cách tiếp cận ngôn ngữ từ định hướng giao tiếp để lí giải quá trình tạo nghĩa theo hướng mở của các nhà ngôn ngữ học tri nhận.

Dĩ nhiên các nhà ngôn ngữ học tri nhận có cách phát biểu nhấn mạnh riêng của mình. Nhưng nghĩ cho cùng, dù sao, hướng nhìn trên cũng không thể nói là hoàn toàn không liên quan gì đến những luận điểm mang tính kinh điển về giá trị tương đối của tín hiệu đang có trong giáo trình Ngôn ngữ học đại cương nổi tiếng của bậc thầy ngôn ngữ học F. de S a u s s u r e.

Trước hết là vấn đề về mối quan hệ giữa tổng thể và bộ phận. Tại trang 221 trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của mình, khi đặt vấn đề tổng thể trong mối quan hệ với bộ phận, Saussure đã chỉ rõ… Thường chúng ta không nói bằng những tín hiệu riêng lẻ, mà nói bằng từng nhóm tín hiệu, bằng những
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

doihanh

New Member
Re: [Free] Cảm nhân và suy nghĩ về tầm nhìn kinh điển trong hướng đi của ngôn ngữ học tri nhận

Link này không down được Mod ơi. Thanks so much
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
M Giải thích và chứng minh hai trạng thái cảm xúc của thi nhân qua hai bài thơ Đây mùa thu tới (Xuân D Văn học 0
F Em hãy tả lại hình dáng và công việc của một chị công nhân vệ sinh đường phố và nói lên những cảm ng Văn học thiếu nhi 0
T Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ để làm nổi bật cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ gắn tình mẹ củ Văn học 0
D Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ để làm nổi bật cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ gắn tình mẹ củ Văn học thiếu nhi 0
D Cảm nghĩ của em về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao Văn học 0
T NGHIÊN CứU CáC YếU Tố LIÊN QUAN Và Độ NHạY CảM VớI KHáNG SINH CủA CáC CHủNG NấM CANDIDA ở BệNH NHÂN Tài liệu chưa phân loại 0
A Ảnh hưởng của giao tiếp và đời sống tình cảm đến sự phát triển nhân cách lứa tuổi đầu thanh niên Tài liệu chưa phân loại 0
L Ứng dụng mạng nơron nhân tạo để khắc độ tự động thiết bị đo và cảm biến đo lường Tài liệu chưa phân loại 2
T Trầm cảm: Nguyên nhân và giải pháp...???? Sức khỏe 3
K Phân tích vai trò của trí tuệ cảm xúc trong đời sống và hoạt động thực tiễn của cá nhân Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top