nhoc_denny

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó. Nhà nước ta cũng như vậy, và để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì nhà nước cần có những công cụ riêng của mình. Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách Nhà nước. Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng cách, đúng lúc, tình trạng bao cấp tràn lan, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra cho chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước. ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế - xã hội là hết sức rộng lớn.
II. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm, vai trò ngân sách nhà nước:
Luật ngân sách nhà nước đã được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kì họp thứ 9 thông qua ngày 20/3/1996 cũng có ghi: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước”.
● Xét về phương diện pháp lí: Ngân sách nhà nước là một đạo luật dự trù các khoản thu chi, chi bằng tiền của nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành.
● Xét về bản chất kinh tế: Mọi hoạt động của ngân sách nhà nước đều là hoạt động phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia. Ngân sách nhà nước thể hiện mối quan hệ phân phối. Đó là hệ thống quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà nước một bên là các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp dân cư.
● Về tính chất xã hội : ngân sách nhà nước luôn là một công cụ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nước, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng,nhiệm vu của nhà nước
Trong cơ chế thị trường, những quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nước chỉ có thể phát sinh, phát triển trên cơ sở vận động không ngừng của các cơ quan tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tính chất, quy mô, mức độ và hiệu quả của quá trình vận động là tiền đề vật chất quan trọng nhất của ngân sách nhà nước; sẽ không có một ngân sách lành mạnh nếu như sự vận động của các quan hệ tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa bị ách tắc hay bị biến dạng theo xu thế không có lợi, làm tổn thương đến sự vận động của hàng hóa. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng : trong mối quan hệ giũa ngân sách nhà nước với sự vận động của các đơn vị tiền tệ nảy sinh trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hóa, các quan hệ tiền tệ thuộc nội dung ngân sách nhà nước hoàn toàn không mang tính thụ động mà có ảnh hưởng tích cực trở lại. Sự ảnh hưởng đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhà nước sử dụng ngân sách làm công cụ quản lý kinh tế, xã hội như thế nào. Trong cơ chế thị trường, ngân sách nhà nước được nhà nước sử dụng làm công cụ quan trọng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, xá hội. Do vậy, có thể nói :
Cùng với việc đảm bảo chi tiêu nhà của nước bằng việc huy động các nguồn tài chính trên phạm vi rộng lớn trong và ngoài nước.
Vai trò tất yếu của ngân sách nhà nước ở mọi thời đại và mô hình kinh tế là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, là vai trò quan trọng của ngân sách trong cơ chế thị trường . Về mặt chi tiết có thể đề cập đến nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau, song trên góc độ tổng hợp có thể khái quát 3 khía cạnh sau: kích thích sự tăng trưởng kinh tế( vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế; giải quyết các vấn đề xã hội; góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường).
2.2. Thực trạng thu chi ngân sách:
Những thách thức trong cân đối ngân sách thời gian qua:
Thất thoát, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản ở nước ta đang là thách thức lớn không chỉ là cán bộ hư hỏng, công trình xây dựng kém chất lượng, dự án hiệu quả thấp, mà quan trọng hơn là ảnh hưởng sự phát triển của đất nước.
Vì vậy, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong XDCB phải là cuộc đấu tranh mạnh mẽ và toàn diện nhất cần thiết phải được triển khai ngay.
Diễn biến ngân sách nhà nước trong thời gian qua
2.2.1. Thu ngân sách nhà nước:
Trong thời gian qua, thu ngân sách góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực tài chính nhà nước. Thu ngân sách không những đã bảo đảm đủ nguồn thu cho chi tiêu thường xuyên của Chính phủ mà còn để dành ra một phần tích luỹ cho đầu tư phát triển. Số thu ngân sách, theo giá hiện hành, đã tăng 7,7 lần từ năm 1991 đến năm 2000. Trong đó số thu từ thuế lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN. Bình quân thu từ thuế, phí và lệ phí đạt khoảng 95% trong tổng số thu. Về quy mô, thu NSNN so với tổng GDP tăng từ 13,8% GDP năm 1991 lên đến đỉnh cao 23,3% năm 1995. Bình quân thu ngân sách giai đoạn này là 20,5% GDP. Giai đoạn 1996 – 2000, mục tiêu Đại hội Đảng đề ra là huy động 20% – 21% GDP vào NSNN thông qua thuế và phí. Nhưng thực tế thực hiện năm 1997 đạt 19,4%, năm 1998 đạt 17,7%, năm 1999 đạt 17% và năm 2000 đạt 19,4%. Và như vậy là chưa năm nào đạt mục tiêu đề ra.
Trong năm 2001-2003 cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo chiều hướng tích cực hơn, thu từ nguồn trong nước đã tăng từ 50,7% lên 52,6% so với tổng thu trong năm 2003 nhưng thu từ dầu thô, hoạt động XNK đã giảm từ 47,4% xuống còn 45,9% năm 2003. Ngoài ra do thực hiện pháp lệnh về phí và lệ phí đã bãi bỏ 140 khoản phí thuộc các bộ ngành TW và 105 khoản phí thuộc các địa phương đã làm giảm chi phí xã hội khoảng 1. 000 tỷ đồng mỗi năm. Thu NSNN năm 2004 dự kiến đạt 166. 900 tỷ đồng, vượt dự toán 11,8%, tăng 17,4% so với năm 2003 và tương đương 22,7% GDP. Trong số tăng thu, số tăng từ dầu thô, nhà đất chiếm tỷ trọng lớn.
Tổng dự toán cân đối thu NSNN năm 2005 là 183.000 tỷ đồng, tổng dự toán chi NSNN là 229.750 tỷ đồng, bội chi NSNN là 40.750 tỷ đồng (chiếm 5% GDP). Nếu so với thời kỳ trước đây thì thu ngân sách đã có những tiến bộ lớn. Tuy nhiên, nếu so với tốc độ tăng trưởng thì việc tăng thu ngân sách còn chậm, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, trong khi giá trị sản xuất công nghiệp tăng 19,2% thì nguồn thu ngân sách chỉ tăng 12%. Dự toán thu nội địa (không kể dầu thô) năm 2005 tăng 13,6%; trong đó thu từ khu vực DN nhà nước tăng 12,3%, thu từ khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng 30,1%, từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng 20,5%, dự toán thu phí, lệ phí tăng 4,1% để hạ chi phí đầu vào của nền kinh tế, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu. Điều đặc biệt trong năm 2005, Quốc hội đã nhất trí tăng dự toán thu nội địa từ thu tiền sử dụng đất thêm 800 tỷ đồng (để tăng dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản hạ tầng của địa phương), tăng dự toán thu ngân sách trung ương từ dầu thô 2. 500 tỷ đồng (do giá dầu thô thế giới hiện ở mức cao và dự báo trong năm 2005 sẽ vẫn ở mức cao).
Những Ngân sách nhà nước đã tập trung nguồn lực để tăng chi đầu tư phát triển (22.700 tỷ đồng), tăng kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh (26.705 tỷ đồng). Góp phần quan trọng ngăn chặn suy giảm kinh tế, tạo đà phục hồi tăng trưởng trong năm 2010.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

abide3012

Member
Re: [Free] Tìm hiểu ảnh hưởng của bội chi ngân sách nhà nước đến tình hình của xã hội

ad ơi cho em link với ạ
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top