Phillip

New Member
Đầu năm 2000, trên thị trường sách xuất hiện cuốn “Điểm bùng phát” của tác giả Malcolm Gladwell – và giai đoạn tốt đẹp của ngành công nghề xuất bản bắt đầu. Ông viết tiếp “Trong chớp mắt” và “Những kẻ xuất chúng”. Cả ba cuốn đều leo lên đầu các danh sách bán chạy.



Tác giả Gladwell có phong cách viết giàu tính suy luận và sự giản dị rất sư phạm. Điều đó vừa giúp biến ông thành một trong những tác giả dòng sách bay hư cấu được trích dẫn thường xuyên và bắt chước rộng lớn rãi nhất trong thế kỷ mới.





Cùng lúc với viết sách, Gladwell vẫn tiếp tục viết báo cho tờ The New Yorker, nơi ông vừa làm chuyện từ năm 1996. Và những bài báo này - một số bài vừa được tuyển chọn vào cuốn sách mới của ông có tên What the Dog Saw - đều có một cấu trúc đặc trưng. Ông thường bắt đầu bằng cách đưa ra một câu hỏi rộng, sau đó thay đổi chủ đề một cách đột ngột.







Hãy cùng ngoặt sang nói về Ben Fountain và Jonathan Safran Foer. Họ là hai tác giả có vẻ không có điểm gì chung khi Gladwell đặt hai câu chuyện của họ cạnh nhau trong bài viết có tên Late Bloomers (tạm dịch: Những bông hoa nở muộn).





Tác giả Fountain mất khá nhiều thời (gian) gian để trở thành nhà văn và trong suốt thời (gian) gian đó vừa đi đến Haiti 30 lần để nghiên cứu. Tác giả Foer chỉ đi đến Ukraine một lần vừa viết được bản nháp đầu tiên cho cuốn sách xuất sắc Everything Is Illuminated (tạm dịch: Mọi điều đều được soi tỏ), lúc 19 tuổi. Ngoài ra còn có Paul Cézanne và Émile Zola. Tác giả Gladwell cũng đưa cả hai người vào Late Bloomers.





Quan điểm chung của bài viết là chúng ta biết nhiều về những thành công đến sớm hơn là về những thành công muộn mằn. Nhưng ý tưởng nguyên bản và đáng ngạc nhiên hơn cả của bài viết là chuyện thành công của những người bùng nổ muộn, như Cézanne hay Fountain, phụ thuộc rất nhiều vào sự giúp đỡ của người khác, như Zola hay vợ của ông Fountain, bà Sharon. Tác động của bài viết Late Bloomers là có thể định lượng được, bởi Gladwell là người nổi tiếng với những dữ liệu định lượng.





Những người mua tuyển tập truyện ngắn Brief Encounters with Che Guevara (tạm dịch: Những cuộc gặp ngắn với Che Guevara) của tác giả Fountain trên Amazon.com cũng mua cuốn Everything is Illuminated. Tại sao vậy? Họ hẳn vừa đinh ninh về mối liên hệ Fountain-Foer phụ thuộc trên những ý tứ của Gladwell.



Bằng chứng này về tầm ảnh hưởng của Gladwell có thể giúp dự báo một điều lớn hơn: cuốn sách mới của ông sẽ thành công không kém ba cuốn đầu tiên. Thứ nhất, cả bốn cuốn sách đều có trang bìa na ná nhau. Thứ hai, cả bốn cuốn đều có phong cách viết tương tự nhau.





Nhưng có một điểm khác biệt quan trọng: What the Dog Saw là tuyển tập các bài báo vừa được xuất bản trước đó. Rất nhiều bài tương tự nhau về cấu trúc chứ chưa nói đến chủ đề, và giọng văn cân nhắc chỉn chu của Gladwell thì không thay đổi. Đó là một giọng văn bình thản văn minh ngay cả khi miêu tả tiếng chó sủa. "Gâu", một đàn cho vừa nói như thế trong lời đề tựa kể về Cesar Millan và năng khiếu huấn luyện chó của ông. "Gâu, gâu, gâu. Gâu".





Liệu các bài báo có cấu trúc chặt chẽ trong cuốn What the Dog Saw có tương tự nhau quá không? Hay, vì tác giả Gladwell lúc nào cũng thích một kiểu cấu trúc nào đó nên các bài báo kiểu gì cũng tương tự nhau? Một cuốn sách tập hợp lại các bài báo được đọc nhiều của một tác giả nổi tiếng thoạt đầu nghe có vẻ buồn tẻ, nhưng cảm giác này sẽ thay đổi nếu bạn biết rằng đây không chỉ là vấn đề xuất bản.





Nếu như đây là một album nhạc? Nếu như tất cả các bài hát đều dễ nhớ? Nếu như lý do nổi tiếng của từng bài hát là không cần bàn cãi? Vậy thì một tuyển tập sẽ không phải là một sự tái chế. Đó là một sự hâm nóng. Và nó sẽ là "Tuyển tập những hit đỉnh nhất của Malcolm Gladwell".





Và bạn sẽ có một cuốn sách đầy những đoạn hội thoại ngắn làm nổi bật thế mạnh của tác giả. Nó tô đậm thêm sở trường của ông trong chuyện chọn những đề tài kỳ quặc nhưng rất phù hợp (ví dụ lịch sử các quảng cáo thuốc nhuộm tóc cho phụ nữ; bí quyết của loại tương cà chua không có đối thủ của Heinz; thậm chí là chuyện thay đổi chỗ làm ảnh hưởng thế nào đến chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ) và cách ông sử dụng những điều tưởng chừng vớ vẩn để nói những điều ý nghĩa hơn.





Cuốn sách cũng cho thấy sở thích của ông trong chuyện đưa ra một trước đề (ví dụ lập hồ sơ tội phạm để tìm ra những kẻ có tiềm năng giết người hàng loạt) để rồi bác bỏ nó. Chẳng hạn, lập hồ sơ tội phạm "không phải là chiến thắng của phân tích pháp y", ông kết luận trong đoạn cuối của một đoạn viết bắt đầu bằng những phán đoán chính xác của một nhân viên lưu trữ hồ sơ về tên khủng bố nổi tiếng Mad Bomber trong những năm 1940 và 1950. "Đó chỉ là trò lừa phỉnh".





What the Dog Saw cũng khẳng định lại niềm đam mê của Gladwell với những điều tương phản, như khi ông liên kết vụ Enron, cuộc điều tra Watergate, nghiên cứu về ung thư tuyến trước liệt và cuộc săn đuổi Osama Bin Laden trong bài Open Secrets (tạm dịch: Những bí mật (an ninh) mở). Ý tưởng của ông ở đây là phân biệt giữa những vấn đề nan giải, những điều có thể có lý giải hợp lý, và những điều bí ẩn, những điều không thể lý giải. Trong Open Secrets sự tương quan này vừa được chứng minh là đúng.





The Art of Failure (tạm dịch: Nghệ thuật thất bại) là một nghiên cứu về sự khác nhau giữa bế tắc và hoảng sợ, trong đó bế tắc khiến người ta quên mất những gì họ ngầm biết còn hoảng sợ khiến người ta quên mất những điều vừa được học. Rõ ràng là bài báo có phần quanh co này xuất phát từ mong muốn viết về tai nạn máy bay vừa lấy mạng John F. Kennedy Jr., và Gladwell kết luận rằng Kennedy vừa hoảng sợ khi phải lái máy bay trong thời (gian) tiết xấu.





Nhưng liệu bế tắc và hoảng sợ có tách biệt nhau trả toàn? Không thể có chuyện người ta quên mất cả hai loại kiến thức đó trong một khoảnh khắc sợ hãi đến tột cùng sao? What the Dog Saw không đi sâu xem xét một cách tỉ mỉ như thế. Điều hay ở đây là phương pháp khoa học mà Gladwell cố tình dùng để "mô phỏng" chuyến bay của Kennedy và ngồi vào chiếc máy bay (trong đó có một bay công chuyên nghề là William Langewiesche) đang rơi với tốc độ khoảng 900 mét một phút.





Giọng văn của cuốn sách luôn làm ra (tạo) cảm giác "có tầm", dù chỉ là khi miêu tả chuyện nếm tương cà chua. Tác giả vừa khiến các sự kiện mang tính trực giác trở nên dễ hiểu bằng một cách tiếp cận khoa học. Cả người viết lẫn người đọc đều không phải tốn một giọt mồ hôi nào.



Đại An (Theo New York Times)

(Nguồn: http://tuanvietnam.net/2010-01-05-nghe-chuyen-moi-tu-tac-gia-nhung-ke-xuat-chung-)



 

Các chủ đề có liên quan khác

Top