Trevyn

New Member
Trên đất nước VN hiện nay loại cà phê nào là số 1 ? Cà Phê Hưng Nguyên bạn thấy như thế nào? Nếu là người biết dùng cà phê chuyên nghề hãy giúp mình câu trả lời này nhé! Cảm ơn.
 

Cory

New Member
Tóm gọn lại nhé:


- Cà phê được tìm thấy đầu tiên ở Ethiopia vào năm 850 và truyền thuyết về người chăn dê Kaldi thì các bạn vừa nói rồi.


- Quán cà phê đầu tiên trên thế giới vừa ra đời ở Constantinople vào năm 1475.


- Năm 1600 cà phê du nhập vào Châu Âu mà sớm nhất là ở Hà Lan, Anh, Pháp.


- Năm 1850, Một người Pháp theo đạo Thiên Chúa Giáo vừa đưa cà phê du nhập vào Việt Nam.


Việt Nam chúng ta hiện trồng cà phê Robusta nhiều nhất, vì loại cây này thích hợp với môi trường nhiệt đới, tiềm năng miễn nhiễm với sâu bệnh cao. Tuy nhiên chất lượng thì bất tốt bằng Arabica loại cà phê có mùi thơm và dịu, có nhiều ở Brazil, loại này cho giá trị cao nhưng chỉ thích nghi ở độ cao trên 1500m lại dễ bị bệnh, bất thích nghi được với vương quốc cà phê ở Đắc Lắc, Buôn Ma Thuột. Ngoài ra VN cũng trồng được loại cà phê mít, sản lượng nhiều nhất nhưng chất lượng thấp nhất thường dùng để trộn chung với hai lọai trên để tiết kiệm và làm mới hương vị.


- Cà phê được biết nhiều nhất ở VN là nhãn hiệu Trung Nguyên và Highlánd coffee, cùng các thương hệu ở Đắc Lắc, Buôn Ma Thuột, Bảo Lộc, mà Hưng Nguyên là một trong số đó.


- Thông tin cuối cùng, nếu bạn có đến các quán cà phê lớn bạn sẽ thấy có một loại cà phê chồn, giá của chúng khoảng 15k/ly uống rất ngon, nhưng loại mắc nhất vào khỏng 30k.

 

Osbert

New Member
Một trong số những huyền thoại kể lại rằng một ngàn năm trước đây một người dân Abixini (bây giờ là Ethiopía) vừa để ý đến hương thơm đặc biệt bốc lên từ một bụi cây đang cháy. Anh ta bèn nhặt của mấy quả trong bụi cây và nếm thử, thấy ngon bèn mang đun lấy nước uống. Anh ta đâu có biết rằng mình vừa khám phá ra một điều hết sức kỳ diệu, vì đó chính là ly cà phê đầu tiên trên thế giới - một thứ nước uống sẽ mãi được con người ưa chuộng.
 

Oliverios

New Member
cái này thì mình bất chắc lắm nhưng hìnhcoi nhưthổ dân châu mĩ vừa tìm ra nó.trong công cuộc tìm kiếm vàng các nước như anh, bồ đào nha vừa đem thứ ấy về đất nước mình và cà phê trở thành một thức uống tuyệt cú vời
 

Avenell

New Member
Ai là người đầu tiên ... vừa phát hiện ra cà phê?


Không ai biết chính xác tên của con người hạnh phúc vừa được trải qua những cảm giác bồi hồi khi nhấp ngụm cà phê đầu tiên. Chỉ biết rằng về lịch sử xuất xứ của cà phê cũng có thật nhiều huyền thoại. Một trong số những huyền thoại kể lại rằng một ngàn năm trước đây một người dân Abixini (bây giờ là Ethiopía) vừa để ý đến hương thơm đặc biệt bốc lên từ một bụi cây đang cháy. Anh ta bèn nhặt của mấy quả trong bụi cây và nếm thử, thấy ngon bèn mang đun lấy nước uống. Anh ta đâu có biết rằng mình vừa khám phá ra một điều hết sức kỳ diệu, vì đó chính là ly cà phê đầu tiên trên thế giới - một thứ nước uống sẽ mãi được con người ưa chuộng.

Vậy là những người đầu tiên biết đến cây cà phê và hương vị thơm ngon củ nó là những người dân Abixini, sống ở phía đông của Châu phi. Cho đến thế kỷ thứ XV chỉ có ở đó mới có cây cà phê. Về sau người ta mới đưa tương tự cây cà phê sang trồng ở các nước ả rập. Trong vòng 200 năm sau đó từ bắc ả rập và Yemen, cây cà phê được trồng rộng lớn rãi trên khắp các nước trên thế giới.

Vào thế kỷ XVII Đan mạch bắt đầu trồng cà phê trên đảo Java, rồi từ đó nó được đưa sang gieo trồng tại các nước nhiệt đới khác. Cây cà phê cũng được biết đến ở Anh và Mỹ sau khi người Anh lấy tương tự cà phê từ đảo Java.

Các cây cà phê mọc chủ yếu ở các nước có khí sau nhiệt đới. Tuy nhiên điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của cây cà phê là những vùng đất cao và khô ráo. Loại đất trồng và khí sau thích hợp đó người ta vừa tìm thấy ở vùng núi tại Braxin.Chính vì vậy ngày nay 3/4 sản lượng cà phê trên thế giới thuộc về đất nước này. ở đây có những đồn điền cà phê lớn nhất thế giới. Có những đồn điền có tới hàng triệu cây cà phê và trải dài nhiều kilômét. Ngoài ra cây cà phê có nhiều ở Venexuela, Guatemala, Mexico, và ở một số vùng thuộc Tây ấn độ và đảo Java.

Những tên gọi như “Mocco”, “Java” trước đây dùng để chỉ nơi trồng cà phê thì nay chúng được dùng để gọi tên các loại cà phê. Cả hai loại này đều là của Braxin, chúng cũng nổi tiềng như cà phê “Rio” và “Santos”. Cảng xuất khẩu cà phê lớn nhất của Braxin là cảng Santos.

Quả cà phê trông tương tự như quả anh đào, mọc trên những bụi cây cao và có lá óng ánh. Trong mỗi quả cà phê có một hay hai hạt dính vào nhau.

Mặc dù có hơn 25 loại cây cà phê, song chỉ có hai trong số đócho quả có hương thơm mỗi khi ta rang chúng lên.

 

Gaston

New Member
Câu chuyện về cà phê thì rất nhiều, thực hay hư cũng ít ai kiểm chứng. hay giả nhiều khi người ta phóng lớn những chuyện nhỏ thành chuyện lớn cho "mùi" cà phê thêm đậm đà, chẳng hạn như "cà phê dãi chồn" mà dân ghiền người Việt thường kể cho nhau nghe. Câu chuyện lãng mạn hơn cả có lẽ là truyện một anh chàng chăn dê tên là Kaldi, người xứ Abyssinia.


Một hôm anh ta ngồi trên một tảng đá cạnh một sườn núi bỗng nhận ra đàn dê vốn dĩ ngoan ngoãn hiền lành của mình đột nhiên có vẻ sinh động lạ thường. Sau khi đến gần quan sát kỹ hơn, Kaldi thấy những con dê vừa đớp những trái màu đo đỏ ở một cái cây gần đó. Anh ta cũng liều lĩnh bứt một vài trái ăn thử và cũng thấy mình hăng hái hẳn lên, tưởng như tràn đầy sinh lực.


Người chăn dê nghĩ rằng mình vừa gặp một phép lạ, vội vàng chạy về một tu viện gần đó báo cho vị quản nhiệm. Nhà tu kia sợ rằng đây chính là một thứ trái cấm của quỉ dữ, lập tức vứt những trái cây chín đỏ kia vào lò lửa. Thế nhưng khi những hạt kia bị đốt cháy tỏa ra một mùi thơm lừng, người tu sĩ mới tin rằng đây chính là một món quà của Thượng Ðế nên vội vàng khều ra và gọi những tăng lữ khác đến tiếp tay. Những hạt rang kia được pha trong nước để tất cả người cùng được hưởng trời ân.


Trước thế kỷ thứ 10th, thổ dân thường hái ăn, dùng như một loại thuốc kích thích. Trái cà phê chín được giã ra trộn với mỡ súc vật nặn thành từng cục tròn để dùng làm thực phẩm khi đi đường xa. Về sau cà phê được dùng làm thức uống nhưng cũng khác phương cách ngày nay. Thời đó người ta chỉ ngâm nước những trái cà phê rồi uống, mãi tới thời (gian) trung cổ người Ả Rập mới biết tán ra bỏ vào nước sôi.


Thức uống đó chẳng mấy chốc trở nên nổi tiếng và người Ả Rập rất tự hào về phát minh này và giữ bí mật (an ninh) để bảo còn độc quyền một loại sản phẩm. Những khách hành hương được thưởng thức nước cà phê vừa lén lút đem hạt tương tự về trồng nên chẳng bao lâu khắp khu vực Trung Ðông đều có trồng, và truyền đi mỗi lúc một xa hơn nữa.


Vào thế kỷ thứ 13, cà phê vừa thành một thức uống truyền thống của người Ả Rập. Những quán cà phê với tên là "qahveh khaneh" hiện diện khắp nơi, từ thôn quê tới thành thị. Những quán đó trở thành những nơi sinh hoạt, với đủ loại giải trí từ âm nhạc đến cờ bạc và các triết gia, chính trị gia, thương gia (nhà) thường lui tới để tụ tập bàn thảo sinh hoạt xã hội và công chuyện làm ăn.


Thế nhưng khung cảnh nhộn nhịp của các "hộp đêm" cũng làm cho giới cầm quyền e ngại. Sợ rằng những tay đối lập có thể tụ họp bàn chuyện chống đối nên nhiều lần triều đình vừa ra lệnh cấm và đóng cửa các coffee houses này nhưng bất thành công. Không những thế, chuyện cấm đoán lại còn khiến cho chuyện uống cà phê trở thành thói quen của thường dân vì từ nay một số đông sợ rắc rối nên uống ở nhà, kiểu cách uống cũng được nghi thức hóa.


Những thương gia (nhà) đi tới những nước Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ nay đem cái thói phong lưu này về bản xứ. Âu châu nay cũng uống cà phê. Kiện hàng mang cà phê được ghi nhận lần đầu tại Venice vào năm 1615 do Thổ Nhĩ Kỳ gửi đến. Khi cà phê lan tới Rome, một lần nữa các nhà tu lại kết án đây là một thức uống của ma quỉ (the alcohol of the devil), và chuyện tranh chấp gay go đến nỗi Giáo Hoàng Clement VIII phải yêu cầu đem đến một gói cà phê mẫu để chính ông dùng thử. Vị chủ chiên kia chỉ mới uống một lần vừa „chịu“ ngay và thấy rằng thật ngu xuẩn xiết bao nếu cấm giáo đồ Thiên Chúa bất cho họ uống cà phê.


Ðược Giáo Hoàng chấp thuận, số người uống cà phê lập tức gia (nhà) tăng và chẳng bao lâu quán cà phê đầu tiên ở Âu Châu được khai trương tại Anh Quốc năm 1637 do một doanh gia (nhà) tên là Jacob (người Do Thái, gốc Thổ Nhĩ Kỳ) mở tại Oxford. Kế đó là một quán cà phê khác ở London và rồi nhiều thành phố khác. Người ta bảo rằng những quán đó rất dễ nhận vì dù còn ở xa xa vừa ngửi thấy mùi cà phê thơm nức, tới gần hơn thì bao giờ cũng có một bảng hiệu với một ly cà phê nghi ngút hay hình đầu một vị tiểu vương xứ Trung Ðông.


Những quán mở gần trường lớn học bao giờ cũng đông nghẹt giáo sư và sinh viên nên được gọi bằng cái mỹ danh "đại học một xu" (penny universities) vì giá của một ly cà phê thuở đó chỉ có một penny và người ta chỉ tốn bấy nhiêu cũng thu thập được rất nhiều kiến thức qua những buổi "thuốc lá dư, cà phê hậu", có khi còn nhiều hơn là miệt mài đọc sách. Chẳng biết những lời tuyên bố đó có đúng hay bất nhưng truyền thống đó bất phải chỉ nước Anh mà lan qua nhiều nước khác, cho chí Việt Nam, quán cà phê vẫn là nơi mà giới sinh viên hay đến để suy tư qua khói thuốc nhiều hơn cả.


Ðến cuối thế kỷ 17, hầu hết cà phê trên thế giới đều nhập cảng từ các nước Ả Rập. Cũng như ngày nay người ta kiểm soát dầu hỏa, vào thuở đó các nước Trung Ðông rất chặt chẽ trong chuyện sản xuất và xuất cảng cà phê, và chỉ được mang hạt ra khỏi xứ sau khi vừa rang chín ngõ hầu bất ai có thể gây tương tự để đem trồng nơi xứ khác. Người ngoại quốc cũng bị cấm bất cho bén mảng đến những đồn điền cà phê. Thế nhưng dù có nghiêm nhặt đến đâu thì cũng có người vượt qua được.


Sau nhiều lần thất bại, người Hòa Lan là dân tộc đầu tiên

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top