daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối

Một đứa con sinh ra khỏe mạnh, thông minh, hoàn thiện về mặt tinh thần và thể
chất là điều ao ước của biết bao bà mẹ. Tuy nhiên, không phải tất cả những đứa trẻ
sinh ra đều được bình thường, có những đứa trẻ sinh ra đã bị dị tật, dị dạng khiến
chúng không thể sống sót khi được sinh ra hay có thể sống nhưng lại trở thành gánh
nặng cho gia đình và xã hội. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ dị
tật bẩm sinh trên thế giới chiếm 1,73%. Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy
tỷ lệ dị tật bẩm sinh là 1,5 – 3%, trong đó 20 – 40% nguyên nhân là do các rối loạn
nhiễm sắc thể. Các rối loạn nhiễm sắc thể thường gặp ở trẻ sinh ra sống phần lớn có
liên quan đến các nhiễm sắc thể 21, 18, 13 và nhiễm sắc thể giới tính. Đây cũng là
nguyên nhân của một số hội chứng bất thường nhiễm sắc thể thường gặp như hội
chứng Down, hội chứng Edwards, hội chứng Patau và một số hội chứng bất thường
của nhiễm sắc thể giới tính như Klinefelter, Turner. Vì vậy, chẩn đoán trước sinh đóng
vai trò quan trọng trong việc phát hiện sớm các dị tật bẩm sinh để có thể can thiệp ở
giai đoạn bào thai nhằm giảm tỉ lệ trẻ sơ sinh mắc các rối loạn di truyền.
Với sự tiến bộ của y học, nhiều kỹ thuật chẩn đoán trước sinh đã ra đời. Từ
năm 1966, kỹ thuật nuôi cấy tế bào và phân tích nhiễm sắc thể đồ (karyotype), gọi tắt
là karyotyping, ra đời và được đánh giá là tiêu chuẩn vàng trong lĩnh vực chẩn đoán
trước sinh. Tuy nhiên, kỹ thuật này vẫn còn tồn tại một số hạn chế như thời gian thực
hiện dài (14 – 21 ngày), thao tác phức tạp, tốn nhiều công lao động. Do đó, nhu cầu
xuất hiện các kỹ thuật khác nhanh hơn và giúp giảm đáng kể thời gian e sợ cho các
bậc cha mẹ là cần thiết. Kỹ thuật lai tại chỗ phát huỳnh quang (Fluorescence In Situ
Hybridization – FISH) đã được giới thiệu với độ nhạy cao và thời gian trả kết quả
ngắn hơn đáng kể. Ngay sau đó, một kỹ thuật mới khác đã ra đời, kết hợp các đặc tính
của PCR và đánh dấu huỳnh quang được gọi là kỹ thuật QF-PCR (Quantitative
Fluorescence Polymerase Chain Reaction). Kỹ thuật QF-PCR có nhiều ưu điểm vượt
trội hơn FISH là có thể tự động hóa cùng lúc nhiều mẫu, chi phí thấp hơn và tốn ít
nhân công lao động hơn. Từ năm 1993, kỹ thuật QF-PCR được chứng minh có thể áp

dụng vào chẩn đoán một số rối loạn số lượng nhiễm sắc thể thường gặp nên đã được
áp dụng tại nhiều nước trên thế giới.
Hiện nay ở Việt Nam, tại một số bệnh viện lớn như bệnh viện Từ Dũ, bệnh
viện Hùng Vương và bệnh viện Phụ sản Trung ương đã triển khai áp dụng kỹ thuật
QF-PCR vào chẩn đoán trước sinh. Khoa Xét nghiệm Di truyền Y học của bệnh viện
Từ Dũ được đánh giá là đơn vị đi đầu cả nước về di truyền người và chẩn đoán trước
sinh, đã ứng dụng thành công các kỹ thuật di truyền phân tử để chẩn đoán các dị tật
bẩm sinh trong đó phải kể đến kỹ thuật QF-PCR. Do đó, trong hai tháng tại khoa Xét
nghiệm Di truyền Y học của bệnh viện Từ Dũ, chúng tui đã thực hiện đề tài thực tập:
“Ứng dụng kỹ thuật QF-PCR trong chẩn đoán trước sinh các rối loạn nhiễm sắc thể
thường gặp” với các mục tiêu như sau:
1. Thực tập quy trình xét nghiệm bằng kỹ thuật QF-PCR.
2. Hiểu và phân tích kết quả QF-PCR sau khi tiến hành điện di mao quản.
3. Đánh giá độ chính xác của kỹ thuật QF-PCR.
1.1. GIỚI THIỆU SƠ NÉT VỀ CÁC RỐI LOẠN NHIỄM SẮC THỂ
THƢỜNG GẶP
Bộ nhiễm sắc thể (NST) của người bình thường bao gồm 22 cặp NST thường
và 1 cặp NST giới tính, XX ở người nữ và XY ở người nam. Công thức NST hay còn
gọi là NST đồ (karyotype) được viết dưới dạng: 46,XX hay 46,XY. Bất kỳ một thay
đổi nào có liên quan đến số lượng hay cấu trúc NST so với công thức NST chuẩn
được gọi là rối loạn NST. Rối loạn NST là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thai dưới ba
tháng bị chết lưu. Rối loạn NST có thể là do di truyền từ bố mẹ, hay đột biến trong
quá trình tạo noãn, tạo tinh trùng, thụ tinh và phát triển của phôi. Nhiều nghiên cứu
cũng cho thấy tỷ lệ rối loạn NST tăng lên rõ rệt theo tuổi của người mẹ.
Lệch bội, sự mất đi hay tăng thêm một hay một vài NST là nguyên nhân phổ
biến của rối loạn NST ở người. Một NST thêm vào gọi là “tam nhiễm sắc thể”
(trisomy) là nhóm chiếm nhiều nhất trong các bất thường NST (chiếm khoảng 90%)
và là một trong những nguyên nhân quan trọng của dị dạng bẩm sinh cũng như chậm
phát triển tâm thần vận động. Trisomy của NST 13 (hội chứng Patau), 18 (hội chứng
Edwards), và 21 (hội chứng Down) là một mối quan tâm lớn trong chẩn đoán trước
sinh bởi vì chúng là ba NST thường được tìm thấy với tần số cao ở các bất thường của
các ca sinh sống [26], [27]. Ngoài ra, sự không phân tách của các nhiễm sắc thể giới
tính trong quá trình giảm phân ở người gây ra một số nhiễm sắc thể bất thường như:
XO (hội chứng Turner), XXY (hội chứng Klinefelter),…Sự không phân tách cũng có
thể xảy ra trong nguyên phân gây ra các thể khảm ở các tế bào bình thường và lệch
bội.
1.1.1. Hội chứng Down
Hội chứng (HC) Down lần đầu tiên được mô tả bởi bác sĩ Iohn Langdon Down
vào năm 1887. Đến năm 1959, nguyên nhân về mặt di truyền của HC Down đã được
phát hiện là do thừa một NST số 21 trong bộ NST nên còn được gọi là trisomy 21. HC
Down chiếm tỷ lệ 1/700 – 1/800 ở trẻ sơ sinh còn sống và tỷ lệ này tương tự giống
nhau ở các nước và các chủng tộc khác nhau trên thế giới [33].
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top