daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào cuối những năm 50 của thế kỷ 20, các nhà khoa học đã phát hiện và tập
trung nghiên cứu một hệ thống enzym có vai trò vô cùng quan trọng đối với con
người, đó là hệ thống cytochrom P450 hay còn được gọi là CYP450. Hệ thống
enzym này là tác nhân xúc tác chuyển hóa cho các chất nội sinh như các steroid,
cholesterol, các acid mật…cũng như các chất ngoại sinh có cấu trúc khác nhau
trong đó có các chất độc, chất gây ung thư và đặc biệt là chuyển hóa thuốc. Hiện
nay người ta đã phát hiện được 57 isozym trên hệ thống CYP450 ở người và chia nó
thành các họ và phân họ khác nhau.
Trong số những isozym này, CYP2D6 giành được sự quan tâm đặc biệt. Bởi
lẽ, dù chỉ đứng thứ hai về mặt số lượng các thuốc chuyển hóa nhưng CYP2D6 lại là
một trong những enzym có hiện tượng đa hình phổ biến nhất. Và những hậu quả của
hiện tượng này nhiều khi rất nghiêm trọng. Hơn thế nữa các nhóm thuốc điều trị
được enzym này chuyển hóa như tim mạch, giảm đau, thần kinh, ung thư là những
nhóm thuốc rất phổ biến hiện nay và có cửa sổ điều trị hẹp. Do đó, việc hiểu biết về
CYP2D6 trên các phương diện: các đột biến gen, những biến đổi ở kiểu hình, hậu
quả lâm sàng kèm theo và các phương pháp phát hiện đột biến là cần thiết, góp phần
vào việc “tối ưu hóa điều trị”.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tui tiến hành đề tài:
“Tổng quan về các đột biến gen mã hóa CYP2D6” với những mục tiêu sau:
1. Tìm hiểu các đột biến gen mã hóa CYP2D6 đã được phát hiện.
2. Tìm hiểu về các phương pháp phát hiện đột biến gen CYP2D6.
CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ CYP2D6
1.1. CYTOCHROM − P450
Cytochrom – P450 (Cyt-P450) là enzym mới được phát hiện cách nay khoảng
60 năm. Đây là một enzym oxy hóa cuối cùng của hệ thống monooxygenase (phản
ứng oxy hóa sử dụng một nguyên tử oxy), tham gia phản ứng oxy hóa rất nhiều hợp
chất khác nhau và có vai trò rất quan trọng trong chuyển hóa những chất có nhân
thơm (gồm cả chất nội sinh ưa mỡ như steroid, acid béo, những vitamin tan trong
dầu mỡ, prostaglandin, leukotrien, thromboxan và những chất ngoại sinh).
Cytochrom – P450 thuộc nhóm b theo cách phân loại của D. Keilin [53]. Enzym
này đã được phát hiện từ những năm 1940 trong khi các nhà khoa học đang tìm
cách giải thích cho một loại phản ứng không bình thường có sự tham gia của phân
tử oxy. Trong những phản ứng này, một nguyên tử oxy liên kết với hai nguyên tử
hydro (được cho từ hai phân tử NADPH) để tạo thành H2O, trong khi nguyên tử oxy
thứ hai được gắn vào cơ chất (kí hiệu là RH). Phản ứng có thể được biểu diễn theo
công thức sau:
2 NAD(P)H+ + O2 + RH → 2 NAD(P)+ + H2O + ROH
Cytochrom – P450 khác biệt với các Cytochrom khác ở chỗ chúng chuyển
thẳng điện tử đến phân tử oxy còn cytochrom khác chuyển điện tử đến các protein,
và có sóng hấp thụ cực đại ở 450nm khi gắn với CO. Sự có mặt của một chất màu
phản ứng với CO và đi kèm với cytochrom b5 trong microsom đã được phát hiện
bởi G.R.William vào năm 1955 và Garfinkel (1958) trong quỹ học bổng Johnson và
bởi Klingenberg [59]. Chất màu này được đặc trưng bởi một băng hấp thụ của hợp
chất với CO ở 450 nm, vì vậy gọi là P450. Để đơn giản và thống nhất về mặt thuật
ngữ, người ta qui ước dùng chữ CYP thay cho Cyt-P450. Sau đó, Sato và Omura
(1962,1964) đã xác định bản chất hem của nhóm ngoại của nó. Loại protein chứa
hem có mặt trong microsom mới được phát hiện này có những thuộc tính riêng biệt
đã được xác định là một enzym oxy hóa cuối cùng của nhiều phản ứng oxy hóa
khác nhau tham gia vào một số quá trình chuyển hóa quan trọng ở cơ thể động vật:
sinh vật tổng hợp hormon steroid, acid mật từ cholesterol và chuyển hóa thuốc [85,
86].
1.1.1. Phân bố
CYP là hệ enzym gắn màng có ở hầu hết các mô trong cơ thể, trong đó tập
trung nồng độ cao chủ yếu ở vi thể trên lưới nội sinh chất nhẵn của tế bào gan và
một lượng ít hơn ở ruột non, phổi, thận và não.
Ở người, CYP tập trung nhiều nhất ở tế bào gan. CYP cũng được tìm thấy
trong ti thể của thượng thận chuột cống và ở ti thể vỏ thượng thận bò [56, 132].
Người ta cũng phát hiện ra rằng CYP không chỉ có ở vi thể và ti thể của động vật có
vú mà còn phân bố rộng rãi ở các dạng tồn tại khác nhau của sự sống bao gồm:
động vật và vi sinh vật. Những nghiên cứu về CYP tăng lên đặc biệt nhanh chóng
trong nửa sau của những năm 1960, khi những nghiên cứu được tập trung chủ yếu
vào chức năng của CYP trong chuyển hóa thuốc ở vi thể gan. Vai trò của CYP trong
sự hoạt hóa các chất gây ung thư khác nhau (carcinogen) đã được khẳng định vào
đầu những năm 1970 và nhiều nhà khoa học đang nghiên cứu các hóa chất gây ung
thư chuyển sang nghiên cứu CYP, mang lại sự phát triển vượt bậc lần thứ hai trong
lĩnh vực nghiên cứu này. Sự phát triển quan trọng tiếp theo là những nghiên cứu
làm sạch CYP từ vi thể và ti thể và dẫn tới việc tinh chế và đặc trưng được nhiều
dạng khác nhau của CYP nguồn gốc động vật. Hầu hết những dạng đã tinh thế này
đều tham gia vào sự chuyển hóa của những chất nội sinh khác nhau, khẳng định vai
trò thiết yếu của CYP trong sự chuyển hóa bình thường ở động vật [77].
1.1.2. Phân loại và danh pháp
CYP là tên chung của một “đại gia đình” các enzym gồm nhiều isozym có
trọng lượng phân tử khoảng 45-60 kDa, trong đó có chứa một nhân Hem ở dạng Fe
protoporphyirin IX và một chuỗi polypeptid. Hệ gen người có 57 gen và 33
pseudogen mã hóa CYP. Các isozym được sắp xếp lại thành họ và trong họ lại được
chia thêm thành các phân họ theo sự tương đồng của chuỗi acid amin trong phân tử.
Các họ có ít nhất 40% trình tự giống nhau, trong khi đó các phân họ tỷ lệ này ít nhất
là 55%. Mỗi họ được ký hiệu bởi một chữ số (ví dụ CYP2), mỗi phân họ được ký
hiệu bởi một chữ cái viết hoa (ví dụ CYP2D) và gen đơn hay isozym được biểu thị
bởi chữ số thứ hai ( ví dụ CYP2D6). Ngoài ra, người ta còn sử dụng chữ số thứ ba (
được ngăn cách với chữ số biểu thị isozym cụ thể bởi một dấu hoa thị *) để biểu
diễn cho vị trí allen (dạng biến đổi của gen) [107].
Ví dụ:
CYP Họ Phân họ Isozym Allen
Trong 30 họ được phân loại, chỉ có 3 họ CYP là CYP1, CYP2, CYP3 chịu
trách nhiệm chuyển hóa phần lớn các thuốc, trong đó riêng 6 enzym 1A2, 3A4,
2C9, 2C19, 2D6 và 2E1 đã đảm nhận chuyển hóa hơn 90% thuốc các thuốc điều trị
[65, 94].
Hình 1. Tỷ lệ chuyển hóa thuốc bởi các CYP [65]
1.1.3. Cơ chế xúc tác của CYP
Cơ chế phản ứng vòng được đề xuất cho phản ứng oxygen hóa bởi CYP. Theo
quan điểm chung, một chu trình phản ứng oxy hóa cơ chất của hệ thống CYP có thể
chia thành 6 bước chính như sau:
Hình 2: Cơ chế xúc tác của CYP [1]
 Bước 1: Cơ chất được gắn vào CYP (dạng oxy hóa) tạo ra hỗn hợp enzym-cơ
chất. Sự gắn cơ chất này làm biến đổi đương lượng từ của CYP từ trạng thái spin
thấp (low spin). Sự biến đổi thế năng oxy hóa được gây ra bằng cách đó sẽ tạo
thuận lợi cho việc chuyển của điện tử thứ nhất.
 Bước 2: Là bước nhận điện tử thứ nhất từ NADPH dưới tác dụng xúc tác của
enzym Cyt-P450-reductase (hay từ một loại protein chứa sắt- lưu huỳnh (2Fe-2S)
gọi là adrenodoxin trong cơ thể vi sinh vật) tạo thành hỗn hợp enzym-cơ chất dạng
khử.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top