papj_girl_kool

New Member
Luận văn tiếng Anh: Thực trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07
Nhà xuất bản: Khoa Luật
Ngày: 2015
Miêu tả: Luận văn ThS. Luật Kinh Tế -- Khoa Luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan........................................................................................... i
Mục lục..................................................................................................... ii
Danh mục các chữ viết tắt...................................................................... iv
Mở đầu..................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài......................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.............................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài............................................... 5
6. Đóng góp của luận văn.......................................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn............................................................................. 6
Chương 1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp
luật bảo hiểm xã hội tự nguyện............................................................. 7
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội tự nguyện............................... 7
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa Bảo hiểm xã hội tự nguyện.............................. 7
1.1.2. Bản chất của Bảo hiểm xã hội tự nguyện........................................ 12
1.2. Khái quát chung về pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện................ 14
1.2.1. Khái niệm pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện............................ 14
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện.......................... 16
1.2.3. Nội dung pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện.............................. 18
1.2.4. Vai trò pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện................................. 29
Chương 2. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và tình
hình thực hiện tại thành phố Đà Nẵng.................................................. 31
2.1. Thực trạng pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện.............................. 31
2.1.1. Về đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện....................... 31
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiiii
2.1.2. Về các chế độ Bảo hiểm xã hội tự nguyện...................................... 34
2.1.3. Về nguồn hình thành quỹ và quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội tự
nguyện...................................................................................................... 45
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở thành
phố Đà Nẵng............................................................................................. 48
2.2.1. Những kết quả đạt được.................................................................. 48
2.2.2. Những hạn chế................................................................................ 54
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng............ 59
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về Bảo hiểm xã hội
tự nguyện................................................................................................. 59
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Bảo hiểm
xã hội tự nguyện........................................................................................
62
3.2.1. Bổ sung một số quy định trong Bảo hiểm xã hội tự nguyện...... 62
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về mức đóng và cách đóng Bảo
hiểm xã hội tự nguyện.............................................................................. 65
3.2.3. Bổ sung các quy định về quản lý và mở rộng các đối tượng tham
gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện........................................................ 68
3.2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức,
viên chức trong tổ chức thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện................ 69
3.2.5. Về tổ chức thực hiện....................................................................... 71
3.2.6. Một số kiến nghị khác..................................................................... 74
Kết luận................................................................................................... 77
Danh mục tài liệu tham khảo................................................................. 78
Phụ lục...................................................................................................... 83iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- ASXH: An sinh xã hội
- BHXH: Bảo hiểm xã hội
- BHYT: Bảo hiểm y tế
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiM 1
Ở ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra những chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế, ổn định đời sống
xã hội. Đặc biệt, các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến an sinh
xã hội luôn được Đảng, Nhà nước chú trọng. Sự phát triển kinh tế thị trường
trong những năm qua đã làm cho diện mạo của đất nước có những thay đổi
sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... Kinh tế
tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, thu nhập
bình quân đầu người ngày càng tăng cao, đời sống kinh tế - xã hội của nhân
dân từng bước được cải thiện. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và
coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động.
Hệ thống an sinh xã hội được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới
nhiều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử, trong
đó “BHXH, BHYT trụ cột vững chắc của hệ thống An sinh xã hội” [34]. Luật
BHXH đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày
12/7/2006; trong đó Bảo hiểm xã hội bắt buộc có hiệu lực từ ngày
01/01/2007; BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008 và Bảo hiểm tự
nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Trong những năm qua, BHXH đã
không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính
sách ASXH của đất nước, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người lao động
nói riêng và của toàn dân nói chung. Bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng là một
trong những chính sách an sinh xã hội đang được quan tâm thực hiện từ đầu
năm 2008 và đã đạt được những kết quả bước đầu, góp phần ổn định đời sống
xã hội của nhân dân.2
Từ năm 2008, số lượng người tham gia BHXH tự nguyện là 6.110
người [21, tr.46], [30], [35], đến cuối 31/12/2013 “số người tham gia BHXH
tự nguyện là 170.600 người” [30], [35]. Loại hình bảo hiểm này chưa thật sự
hấp dẫn đối với người lao động, vì mức đóng còn khá cao so với đại bộ phận
người lao động tự do và nông dân, cũng như quy định số năm đóng góp tối
thiểu để được hưởng lương hưu vẫn cao.
Hiện nay, Việt Nam là quốc gia có cơ cấu “dân số vàng”. “Năm 2009,
tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi) là 68,4%, dự báo
đến năm 2049 tỷ trọng này là 64,42%” [27, tr.1-2]. Dân số Việt Nam hiện
nay trên 90 triệu người, số lượng người trong độ tuổi lao động đến tháng 6
năm 2013 có khoảng 53 triệu người [28], [35]. Số lượng người tham gia Bảo
hiểm xã hội tự nguyện tính đến 31/12/2012 chỉ đạt 139.643 người [15, tr.13],
[22, tr.26] tính đến 31/12/2013 số người tham gia BHXH tự nguyện đạt
170.600 người [30], [35], tăng 22% so với năm 2012. Tuy nhiên, số người
tham gia BHXH tự nguyện như vậy còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với
tiềm năng và số lượng người lao động ở các khu vực chính thức và phi chính
thức.
Qua hơn 6 năm triển khai thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện đã từng
bước mang lại hiệu quả thiết thực cho người lao động. Tuy nhiên, việc triển
khai BHXH tự nguyện chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động, cũng
như định hướng của Đảng, Nhà nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người
lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH tự nguyện; thể chế,
chính sách, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ quản lý như thế nào để tạo điều
kiện thuận lợi triển khai thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện. Xuất phát từ
những lý do trên, tui lựa chọn đề tài “Thực trạng thi hành pháp luật Bảo
hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007, đối với chế độ
BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Để chế độ BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện ngày càng hoàn thiện, phù hợp với người lao động, trong
những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó
phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học như đề tài cấp bộ: "Nghiên cứu mở
rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc
làm và thu nhập”(2002) của tác giả Bùi Văn Hồng; “Giải pháp mở rộng đối
tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân theo đường
lối đổi mới của Đảng và Nhà nước” (2003) của tác giả Kiều Văn Minh. Đề
tài “Mô hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới
và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam” (2007) của tác
giả Đào Thị Hải Nguyệt. Có thể nói các đề tài này chủ yếu tập trung nghiên
cứu các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và kinh
nghiệm của nước ngoài trong việc thực hiện BHXH tự nguyện.
Về luận văn thạc sĩ có thể thấy các công trình sau: “Phát triển bảo
hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Văn Khánh, Học viện Chính trị hành chính - quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2010; “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - 5 năm thực hiện và một số kiến nghị
hoàn thiện” của tác giả Đặng Thị Vân Khánh, Đại học Luật Hà Nội, năm
2013; “Bảo hiểm xã hội tự nguyện thực trạng và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật” của tác giả Hoàng Quốc Đạt, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2012.
Về bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành có các bài
viết sau: “cần xác định Bảo hiểm xã hội là lưới quan trọng”, Tạp chí Lao
động và xã hội online ngày 19/6/2012; “số người tham gia Bảo hiểm xã hội tự4
nguyện thấp”, Tạp chí Lao động xã hội 2008, Đăng Doanh (2009); “Định
hướng hoàn thiện chính sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện” trang web Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội, Tạp chí Lao động xã hội...
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trong thời gian qua chỉ mới là
những nghiên cứu bước đầu, thiếu tính hệ thống, đòi hỏi cần bổ sung những
điểm mới, hệ thống các chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện nhằm đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu lý luận pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực
trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp để phát triển Bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng.
- Đề tài làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về BHXH tự
nguyện, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật BHXH tự nguyện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng thời gian qua, phân tích những vấn đề pháp luật và thực
tiễn triển khai mô hình bảo hiểm này để đưa ra những kiến nghị, định hướng
và giải pháp thực hiện BHXH tự nguyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về Bảo hiểm xã hội nói chung và Bảo hiểm xã
hội tự nguyện nói riêng.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
truyền thống như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, diễn giải, quy
nạp ... những phương pháp trên không sử dụng độc lập mà đan xen và kết hợp
với nhau để làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật
BHXH tự nguyện hiện hành và đánh giá thực trạng pháp luật BHXH tự
nguyện nói chung và việc áp dụng BHXH tự nguyện ở thành phố Đà Nẵng
nói riêng.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu về thực trạng thi hành pháp luật
BHXH tự nguyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để từ đó đưa ra các giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình BHXH này.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ thêm các vấn đề lý luận về pháp luật BHXH tự nguyện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BHXH tự nguyện cũng
như quá trình tổ chức thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH tự
nguyện, cũng như đề xuất một số kiến nghị nhằm thực hiện BHXH tự nguyện
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tiến tới đảm bảo quyền hưởng an sinh xã hội
cho người dân.6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật
Bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện và tình
hình thực hiện tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội có lịch sử hình thành, phát triển từ lâu đời và được
triển khai thực hiện rộng rãi trên thế giới, "chế độ bảo hiểm tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp ra đời lần đầu tiên ở nước Phổ” (Cộng hòa liên bang
Đức). "Đến năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức,
Bỉ. Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH” [33]. Khi
mới triển khai thực hiện BHXH, hầu hết các nước thường áp dụng BHXH bắt
buộc cho các đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia BHXH bắt buộc
(dành cho những người tham gia quan hệ lao động).
Ở Việt Nam BHXH ra đời từ rất sớm. Từ năm 1986, Việt Nam đã thực
hiện chính sách cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường, sự đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có
những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách
BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: Nhà nước thực hiện chế độ
BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến
khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động. Trong văn
kiện Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ, cần đổi mới chính
sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các
thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách quỹ
BHXH ra khỏi ngân sách. Ngay trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đất nước giai đoạn 2011-2020, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu là8
“tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng
bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị
tổn thương, vượt qua khó khăn hay các rủi ro trong đời sống” [20, tr.228].
Hiện nay, ở nước ta Bảo hiểm xã hội được thực hiện với cơ chế Nhà nước -
Người sử dụng lao động - Người lao động. Trong đó, cơ quan nhà nước đóng
vai trò tiến hành các hoạt động bảo hiểm, người sử dụng lao động và người
lao động cam kết đóng góp cho nhà nước để được hưởng các chế độ bảo
hiểm.
BHXH là một trong những phương pháp được con người lựa chọn để
nhằm bù đắp một phần thu nhập khi đối mặt với những rủi ro, biến cố trong
cuộc sống như lũ lụt, hạn hán, động đất, hoả hoạn, bệnh tật, mất việc làm…
Khi rơi vào những trường hợp rủi ro trên, con người có nhu cầu đòi hỏi khắc
phục khó khăn về kinh tế, chữa bệnh, an dưỡng tuổi già, chăm sóc sức
khoẻ… Chính vì vậy các nhà nghiên cứu chính sách xã hội đã đề ra chính
sách bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là bộ phận chủ yếu, trụ cột, đóng vai trò quyết định
của hệ thống An sinh xã hội và được thể chế hoá bằng những văn bản quy
định pháp luật của nhà nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH,
nhưng khái niệm theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đó là: BHXH là sự
đảm bảo thay thế hay bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi
họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hay mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung
do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo trợ
của Nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho
gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
Từ những nhu cầu của cuộc sống cần có sự san sẽ, giúp đỡ nhau, tương
thân tương ái mà Bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời bên cạnh bảo hiểm xã hội
bắt buộc là nhu cầu tất yếu. Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình BHXH tự
nguyện, đó là “BHXH tự nguyện áp dụng cho bất kì người lao động nào tự
nguyện tham gia và mô hình bảo hiểm bổ sung cho BHXH bắt buộc” [16,
tr.5]. Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng BHXH tự nguyện là chính
sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia;
Nhà nước quy định mức đóng góp để hình thành Quỹ BHXH tự nguyện đảm
bảo đủ kinh phí để chi trả cho người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng
các chế độ mà người tham gia BHXH được hưởng (bao gồm điều kiện hưởng,
mức hưởng) nhằm bảo đảm bù đắp rủi ro cho người tham gia BHXH tự
nguyện.
BHXH tự nguyện là loại hình BHXH được xây dựng trên cơ sở tự
nguyện của người lao động với tư cách là người tham gia cũng là người
hưởng BHXH. Giữa loại hình BHXH tự nguyện và loại hình BHXH bắt buộc
có những điểm giống nhau về mục tiêu, bản chất, mục đích hoạt động, sự
hình thành và sử dụng quỹ. Tuy nhiên, BHXH tự nguyện có những điểm khác
so với BHXH bắt buộc đó là mối quan hệ lao động của những người tham gia
BHXH ở hai loại hình này.
Trong những năm qua, cùng với BHXH bắt buộc, việc triển khai
BHXH tự nguyện đã phát huy tác dụng trong việc hỗ trợ người lao động khi
gặp những khó khăn, biến cố trong cuộc sống, trên cơ sở những đóng góp của
người lao động trước khi xảy ra những rủi ro đó. Có thể hiểu một cách khái
quát về Bảo hiểm xã hội tự nguyện như sau:
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban
hành để đảm bảo thay thế hay bù đắp một phần thu nhập đối với người lao10
động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hay mất khả năng lao
động bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự tự
nguyện đóng góp một phần thu nhập của người lao động, người sử dụng lao
động, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình
họ, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
hay có thể nói: Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã
hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và
cách đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội.
Từ những khái niệm trên đây, có thể thấy rằng người lao động có
quyền lựa chọn mức đóng, cách đóng phù hợp với thu nhập của mình
và người lao động hoàn toàn tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện để được
hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của nhà nước. Khi tham gia vào
BHXH tự nguyện thì mức đóng góp được chia cho người sử dụng lao động và
người lao động; tỷ lệ đóng góp của các bên khác nhau tuỳ từng trường hợp vào sự thoả
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia BHXH tự
nguyện thông qua việc người sử dụng lao động trả lương cho người lao động
để người lao động tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện.
BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận, mà vì mục đích bảo
đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định, thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội. Cùng với BHXH bắt buộc, Bảo hiểm xã hội tự nguyện có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện qua các mặt sau đây:
Thứ nhất, BHXH tự nguyện góp phần thực hiện công bằng xã hội, tạo
sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên thị trường lao động. BHXH tự
nguyện là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người có thu nhập cao,
thấp khác nhau theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là công
cụ phân phối thu nhập của những người mạnh khoẻ, may mắn, có việc làm ổn
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
định cho những người đau ốm, gặp phải những biến cố, rủi ro trong lao động
sản xuất và trong cuộc sống. Ở các nước phát triển và đang phát triển, trong
điều kiện kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu cùng kiệt ngày càng gia tăng.
Chính phủ các nước đều đưa ra các chính sách để giảm dần khoảng cách giàu,
nghèo, chính vì vậy, chính sách BHXH tự nguyện là một trong những chính
sách tạo sự bình đẳng cho người lao động, góp phần làm giảm bớt khoảng
cách giữa người giàu và người nghèo.
Thứ hai, BHXH tự nguyện có vai trò phân phối, sử dụng hiệu quả
nguồn quỹ dự phòng, tạo cơ chế chia sẻ, nhằm giảm bớt những rủi ro, góp
phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời
sống xã hội và tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Quỹ BHXH tự nguyện
được hình thành từ s ự đóng góp của người lao động và từ sự hỗ trợ của nhà
nước để chi trả các chế độ cho người tham gia BHXH tự nguyện. Quỹ BHXH
phát triển sẽ góp phần tạo nguồn lực tài chính, cung ứng vốn cho việc đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, quỹ BHXH tự nguyện góp phần ổn định tài
chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, BHXH tự nguyện giúp đảm bảo thu nhập cho người lao động
và gia đình họ khi gặp những khó khăn như ốm đau, tai nạn lao động, chết…
Những người tham gia BHXH tự nguyện hầu hết là những người lao động tự
do, thu nhập thường thấp, không ổn định, bấp bênh như: những người nông
dân, kinh doanh, buôn bán nhỏ… khi họ tham gia BHXH tự nguyện sẽ giúp
họ và gia đình họ đảm bảo được phần nào những rủi ro xảy ra trong cuộc
sống.
Thứ tư, BHXH tự nguyện góp phần nâng cao năng suất lao động xã
hội, thúc đẩy sản xuất phát triển. Người tham gia BHXH tự nguyện được đảm
bảo về thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết, giúp họ tiết kiệm kinh phí đều12
đặn để dự phòng khi già yếu, mất sức lao động… Chính vì vậy, BHXH tự
nguyện tạo động lực cho người lao động phấn khởi, yên tâm làm việc, tạo
điều kiện để thu hút các nguồn lực lao động vào nền sản xuất, thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Thứ năm, BHXH tự nguyện góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân,
giảm chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội. BHXH tự nguyện góp
phần tạo cơ hội để thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của
các thành viên khác trong xã hội. Người có thu nhập cao, có năng lực cao hơn
sẽ đóng góp nhiều hơn vào quỹ BHXH, họ trợ giúp cho những người yếu thế
trong xã hội. Những người lao động khi gặp phải rủi ro, họ sẽ nhận được trợ
cấp từ BHXH để cải thiện cuộc sống.
1.1.2. Bản chất của BHXH tự nguyện
BHXH ra đời là nhu cầu khách quan và là sản phẩm tất yếu của nền
kinh tế. Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Nhật, Đức, Anh,
Canada… BHXH phát triển vững mạnh, cùng với hệ thống BHXH đa dạng,
với nhiều loại hình BHXH phong phú. BHXH nhằm bù đắp những thiệt hại,
rủi ro cho người lao động và gia đình họ khi gặp những biến cố trong cuộc
sống, BHXH nói chung và BHXH nói riêng mang bản chất kinh tế và mang
bản chất xã hội.
- Tính kinh tế của BHXH tự nguyện
Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng
thể hiện ở việc người tham gia BHXH tự nguyện đóng góp một khoản tiền
để hình thành nên quỹ dự trữ. Nguồn quỹ dự trữ này được dùng để trợ cấp
cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm
hay mất thu nhập. BHXH tự nguyện tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho
người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH mà họ tham
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
gia. Chính vì vậy, về mặt kinh tế BHXH tự nguyện là một hình thức tổ chức,
phân phối lại thu nhập, góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế
cho người lao động và gia đình họ. BHXH là một bộ phận cấu thành nên
GDP của mỗi quốc gia, được phân phối lại cho những thành viên trong xã
hội khi phát sinh nhu cầu về BHXH như ốm đau, sinh đẻ, già yếu, chết... sự
phân phối thu nhập có thể thực hiện giữa người trẻ và người già, giữa những
người khỏe mạnh với người ốm đau, giữa người có thu nhập cao với người
có thu nhập thấp hay phân phối giữa bản thân người lao động và gia đình
họ. Chính nhờ sự phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và
gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội.
Tóm lại, bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện chính là việc hình
thành và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện góp phần tổ chức, phân phối lại thu
nhập, nhằm bảo đảm đời sống của người lao động và gia đình họ trước những
bất trắc, rủi ro xã hội.
- Tính xã hội của BHXH tự nguyện
"Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng,
là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã
hội" [11, tr.2]. Về mặt xã hội, BHXH nói chung và BHXH tự nguyện với mục
tiêu không vì lợi nhuận, mà vì mục tiêu xã hội. Người tham gia BHXH tự
nguyện được chia sẻ rủi ro và được thay thế hay bù đắp một phần thu nhập
khi bị giảm hay mất khả năng lao động. Quỹ BHXH tự nguyện thực hiện
theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” đã góp phần trang trải những rủi ro khi
xảy ra cho người lao động và gia đình họ. Mặc dù người lao động đóng một
khoản tiền nhỏ trong thu nhập của mình, nhưng được bồi hoàn một khoản thu
nhập đủ lớn từ nguồn quỹ BHXH tự nguyện, nhờ đó đã chia sẻ, giúp cho14
người lao động và gia đình họ trang trải rủi ro khi thu nhập của họ bị giảm
hay bị mất.
Như vậy, về mặt xã hội, BHXH tự nguyện hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận, là một trong những chính sách xã hội, góp phần thực hiện chính
sách xoá đói giảm cùng kiệt của đất nước, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, góp phần ổn định đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, giữa bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH tự
nguyện đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh
tế cho người lao động và gia đình của họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH
tự nguyện, và ngược lại, khi nói đến sự đóng góp một khoản kinh phí nhỏ từ
thu nhập nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính
kinh tế của BHXH tự nguyện.
1.2. Khái quát chung về pháp luật BHXH tự nguyện
1.2.1. Khái niệm pháp luật BHXH tự nguyện
Bảo hiểm là một trong những phương pháp, công cụ hữu ích có vai trò
quan trọng nhằm giúp con người phòng ngừa và vượt qua được những trở
ngại rủi ro trong cuộc sống. Ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội được biết đến từ rất
sớm và được xem là một trong những công cụ đắc lực trợ giúp cho người lao
động trang trải khi gặp những biến cố đột xuất xảy ra trong cuộc sống, bằng
cách sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho
người được bảo hiểm trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập bình quân
do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động
hay khi chết.
BHXH tự nguyện có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời, nó
được thực hiện rộng rãi trên thế giới, xuất phát đầu tiên từ ở Đức và ở Anh,
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
với những quỹ khác nhau do các hội nghề nghiệp, hội tương tế quản lý. Ở
mỗi quốc gia khác nhau, có trình độ phát triển dân trí khác nhau thì chính
sách, pháp luật về BHXH cũng có những điểm khác nhau. Dù trình độ dân trí
có khác nhau nhưng loại hình BHXH tự nguyện là loại hình được xây dựng
trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của người tham gia, bằng cách đóng góp một
phần thu nhập của mình để được hưởng chế độ bảo hiểm nhằm giảm bớt
những rủi ro, biến cố của người tham gia như mất việc làm, ốm đau, tai nạn,
tử tuất...
Theo quy định của Luật BHXH, BHXH tự nguyện được định nghĩa
như sau: “BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện
tham gia, được lựa chọn mức đóng và cách đóng phù hợp với thu
nhập của mình để hưởng BHXH” (khoản 3, Điều 3).
Qua khái niệm này, có thể thấy người lao động tự nguyện tham gia
hay không tham gia, được lựa chọn mức đóng và cách đóng phù hợp
với khả năng kinh tế và thu nhập của mình, điều này đã tạo điều kiện cho
người tham gia có thể cân đối nguồn tài chính trong gia đình để lựa chọn mức
đóng phù hợp và có điều kiện để tham gia BHXH tự nguyện nhằm giảm bớt
những rủi ro khi xảy ra cho bản thân và gia đình. Nhà nước đã đề ra các quy
định về mức đóng, quy định các chế độ của BHXH tự nguyện, điều kiện để
hưởng và mức hưởng để đảm bảo bù đắp những rủi ro cho người tham gia
BHXH tự nguyện. Như vậy, Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một công cụ bảo
đảm tối thiểu để người lao động duy trì và tái tạo khả năng lao động mà
không phải là các khoản chi trả trực tiếp để người lao động chữa bệnh khi ốm
đau, tai nạn, người tham gia được lựa chọn mức đóng, cách đóng phù
hợp để được hưởng các chế độ bảo hiểm.16
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật BHXH tự nguyện
BHXH là một trong những chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia.
Việc thực hiện chính sách BHXH đều tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Nguyên tắc BHXH là những quy định nhằm đảm bảo cho các hoạt động
BHXH diễn ra bình thường, đạt được mục tiêu mong muốn của nó.
BHXH tự nguyện là một trong những bộ phận cấu thành nên BHXH, vì
vậy BHXH tự nguyện tuân thủ theo những nguyên tắc chung của BHXH và
tuân theo những nguyên tắc riêng. Những nguyên tắc chung của BHXH được
tổng hợp từ những văn bản của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về BHXH và
từ những chính sách của các quốc gia có hệ thống an sinh tiên tiến trên thế
giới. Theo đó, nguyên tắc chung BHXH cụ thể như sau:
Thứ nhất, BHXH tự nguyện được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của
người tham gia. Đây là một trong những nguyên tắc đặc trưng của BHXH tự
nguyện. Nguyên tắc này thể hiện sự tự nguyện của người lao động có quyền
tự do lựa chọn tham gia hay không tham gia BHXH tự nguyện. Họ có quyền
được lựa chọn mức đóng và cách đóng BHXH tự nguyện phù hợp với
thu nhập của mình. Phí đóng BHXH tự nguyện dựa hoàn toàn vào sự đóng
góp của người lao động mà không có sự đóng góp nào khác của người sử
dụng lao động. Nguyên tắc này xuất phát từ đối tượng của loại hình BHXH tự
nguyêṇ , những người tham gia BHXH thường là những người lao động có thu
nhập thấp và không ổn định nên họ cần được tạo điều kiện phù hợp với nhu
cầu để thuận lợi hơn cho họ khi tham gia BHXH tự nguyện.
Thứ hai, các quy định BHXH tự n
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có những đặc thù so với những
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Trong khi quan hệ lao động của đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện thường không lâu dài, thu nhập thấp và
không ổn định, khả năng tiết kiệm không cao nên để tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện với mức đóng như hiện nay là rất khó khăn đối với người lao động.
Với quy định hiện nay về BHXH tự nguyện còn thiếu tính linh hoạt, chưa thật
sự phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu của người lao động. Chính vì vậy,
chính sách BHXH tự nguyện cần điều chỉnh, sửa đổi để đảm bảo linh hoạt
hơn, phù hợp hơn với điều kiện sống, khả năng của người lao động, có như
vậy mới thu hút được người lao động tham gia.
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới là xu thế chung của các
quốc gia. Việt Nam là một trong những thành viên của WTO, quá trình tham
gia hội nhập quốc tế đòi hỏi những chính sách, pháp luật của Việt Nam phải
phù hợp và tương thích với các nước. Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã
hội từng bước hoàn thiện để hội nhập với khu vực và thế giới. Quá trình hội
nhập kinh tế thế giới cũng sẽ phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc, đòi hỏi
mỗi quốc gia phải nỗ lực đề ra những chính sách, chủ trương phù hợp nhằm
giải quyết tốt những vấn đề đó. Chính vì vậy, bên cạnh những chính sách thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa các
chính sách an sinh xã hội nhằm từng bước phù hợp với các quy định chung
của các quốc gia trên thế giới.62
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
BHXH tự nguyện
3.2.1. Bổ sung một số quy định BHXH tự nguyện
Hiện nay, theo quy định BHXH tự nguyện gồm có hai chế độ là hưu
trí và tử tuất. Vừa qua, Quốc hội đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội 2014, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2016, theo đó BHXH tự nguyện vẫn giữ
nguyên hai chế độ, đó là chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Điều kiện hưởng
lương hưu đối với người tham gia BHXH tự nguyện bao gồm đủ các điều sau:
nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên. Những
người lao động có đủ điều kiện về tuổi đời nhưng thời gian tham gia BHXH
chưa đủ 20 năm thì được đóng cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu.
Như vậy, Luật BHXH 2014 đã tạo điều kiện hơn cho những người đủ tuổi
nghỉ hưu theo quy định nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH, được đóng tiếp
những năm còn thiếu cho đến khi đủ 20 năm để được hưởng chế độ bảo hiểm.
Qua 6 năm thực hiện BHXH tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng, số
người lao động mà thân nhân của họ được hưởng chế độ tử tuất chỉ có 03
người so với số lượng người tham gia BHXH tự nguyện là 631 người [12,
tr.12]. Với số lượng người được hưởng chế độ tử tuất như vậy là rất thấp, nhờ
đó mà việc đảm bảo cân đối nguồn quỹ BHXH tự nguyện hiện nay tại thành
phố Đà Nẵng rất thuận lợi. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
người dân, BHXH tự nguyện cần xem xét tính toán đến việc tăng thêm các
chế độ như: chế độ tai nạn lao động, ốm đau, bệnh nghề nghiệp... nhằm chia
sẻ những rủi ro, tạo bình đẳng hơn giữa những người tham gia BHXH tự
nguyện với những người tham gia BHXH bắt buộc, góp phần thực hiện tốt
hơn nữa Chiến lược đảm bảo an sinh xã hội của quốc gia nói chung và thành
phố Đà Nẵng nói riêng. Theo đó, nhà nước nên quy điṇ h thời gian hưởng chế
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi63
độ ốm đau của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện giống như đ ối tượng
tham gia BHXH bắt buộc. Thờ i gian đóng BHXH là thờ i gian đư ợc tính để
hưở ng chế đô ̣ốm đau . Mức hưở ng chế đô ̣ốm đau của ngườ i lao đôṇ g tham
gia BHXH tự nguyêṇ nên căn cứ vào tình hình cu ̣thể để cân đối ngu ồn quỹ,
và căn cứ vào thời gian đóng BHXH để có thể quy định m ức hưở ng v ới các
mức khác nhau, có thể với mức bằng 25%, 45%, 55%, 65% mức thu nhập
đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc, giống như những đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc.
- Hiện nay, người lao động tham gia BHXH tự nguyện từ 5 năm trở lên
thì thân nhân của họ mới được nhận chế độ trợ cấp mai táng. Luật BHXH
2014 cũng đã quy định mức hưởng trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương
cơ sở tại tháng người tham gia bảo hiểm chết. Việc quy định thời gian 5 năm
đóng BHXH tự nguyện mới được nhận trợ cấp mai táng như hiện nay là quá
dài. Chế độ trợ cấp mai táng cần xem xét điều chỉnh thời gian tham gia
BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ này. Có thể cân nhắc điều chỉnh
giảm số năm tham gia BHXH tự nguyện trên cơ sở cân đối nguồn quỹ bảo
hiểm, đảm bảo được việc tăng trưởng quỹ và cân đối với lợi ích của người lao
động. Tại thành phố Đà Nẵng, qua 6 năm thực hiện BHXH tự nguyện chỉ có 1
trường hợp thân nhân được nhận trợ cấp mai táng. Do đó, cần tính toán
phương án giảm số năm đóng BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ trợ
cấp mai táng, tương ứng với việc giảm mức trợ cấp, hay có thể tính toán chia
theo tỷ lệ số năm đóng BHXH tự nguyện để người lo mai táng được nhận
mức hỗ trợ tương ứng, nhằm đảm bảo người lao động được hưởng đầy đủ các
quyền lợi khi tham gia bảo hiểm và giúp cho gia đình của người lao động
giảm bớt phần nào khó khăn khi người lao động chết.
Trường hợp những người lao động có thời gian đóng BHXH tự nguyện
dưới 5 năm chết và người lo mai táng không hẳn đã là thân nhân của người64
tham gia BHXH tự nguyện, nên họ chưa chắc đã được hưởng chế độ trợ cấp
tuất một lần. Vì vậy, pháp luật cần điều chỉnh quy định để phù hợp hơn,
nhằm động viên, giúp đỡ một phần về mặt tài chính cho người lo mai táng
tương ứng với số năm và kinh phí mà người lao động đã tham gia đóng
BHXH tự nguyện.
- Luật BHXH 2014 đã đề ra mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân
của người lao động đóng hay bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính theo
số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu
nhập tháng đóng BHXH cho những năm đóng BHXH trước năm 2014; bằng
2,0 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH cho các năm từ năm
2014 trở đi. Việc sửa đổi quy định so với Luật BHXH 2006 đã thể hiện sự
quan tâm của nhà nước đối với người lao động và thân nhân của họ, giúp cho
thân nhân của người tham gia BHXH tự nguyện giảm bớt phần nào khó khăn
trong cuộc sống. Tuy nhiên, đối với trợ cấp tuất hằng tháng nên điều chỉnh số
năm đóng BHXH bắt buộc thay vì quy định thời gian đóng BHXH bắt buộc từ
15 năm trở lên mớ i được hưởng chế độ trợ cấp tuất hằng tháng như hiêṇ nay
thì nên giảm số năm ho ặc có thể b ỏ quy định này và bổ sung thêm quy định
những người lao động tham gia BHXH bắt buộc hay BHXH tự nguyện đủ 15
năm trở lên thì thân nhân của họ được hưởng chế độ trợ cấp tuất hằng tháng.
Việc quy định như vậy sẽ tạo công bằng hơn cho người lao động.
- Đối với những đối tượng lao động làm nghề hay công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm khi tham gia BHXH bắt buộc sẽ được giảm độ tuổi
hưởng chế độ hưu trí, đối với nam là 55 tuổi, nữ 50 tuổi có đủ 15 năm làm
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Trong khi đó, BHXH tự nguyện thì
không có quy định về giảm độ tuổi trong những trường hợp này. Những
người lao động làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, sức khoẻ
bị giảm sút, dễ bị bệnh tật, tuổi thọ giảm, hầu hết họ mong muốn được hưởng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi65
chế độ hưu trí sớm hơn. Chính vì vậy, chính sách của nhà nước cần nghiên
cứu thêm nội dung này để thu hút người lao động tham gia BHXH tự nguyện,
góp phần thực hiện tốt những mục tiêu chính sách an sinh xã hội.
- Chính sách BHXH cũng cần nghiên cứu bổ sung thêm nội dung cho
phép những người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được tham
gia loại hình bảo hiểm tự nguyện như chính sách của một số nước đã thực
hiện để tăng thêm nguồn quỹ BHXH và tăng khả năng đảm bảo cuộc sống
cho người lao động.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về mức đóng và cách
đóng BHXH tự nguyện
Hoàn thiện các quy định về mức đóng BHXH tự nguyện
Mức đóng BHXH tự nguyện hiện nay là 22% mức thu nhập tháng đóng
BHXH tự nguyện. Với mức đóng BHXH tự nguyện như hiện nay được xem
là cao so với thu nhập của người lao động, nhất là đối với những người lao
động nghèo. Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại thành phố
Đà Nẵng, đòi hỏi nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về mức đóng đối với
người lao động cùng kiệt tham gia BHXH tự nguyện. Nhà nước cần xác định lại
mức đóng BHXH tự nguyện đối với từng nhóm đối tượng, xác định mức hỗ
trợ thích hợp, tương ứng với nguồn ngân sách của nhà nước và nguồn ngân
sách hỗ trợ của thành phố; thành phố nên hỗ trợ mức đóng đối với những hộ
cùng kiệt và những người có mức đóng thấp; cần phân loại đối tượng ở từng địa
bàn dân cư để đưa ra nhiều mức hỗ trợ tương ứng. Không nên chọn một mức
hỗ trợ, mà cần đa dạng nhiều mức hỗ trợ tương ứng với nhiều loại đối tượng
người lao động khác nhau để hạn chế tình trạng lạm dụng cơ chế, chính sách
của nhà nước.66
- Vừa qua, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đề xuất Chính phủ mức
hỗ trợ cho người lao động nghèo, làm các công việc cho bản thân không được
trả lương như những người nông dân, nội trợ,... với mức đề xuất là 30% mức
lương tối thiểu chung. Như vậy, với mức đề xuất như trên nếu được Chính
phủ chấp thuận thì "người lao động cùng kiệt sẽ chỉ phải đóng 70%; 30% còn lại
sẽ được nhà nước hỗ trợ" [31]. Người lao động sẽ có nhiều cơ hội hơn để
tham gia BHXH tự nguyện. Qua đó, góp phần thực hiện tốt hơn chính sách an
sinh xã hội của đất nước. Trên cơ sở quy định này, thành phố cần dành khoản
kinh phí thích hợp để hỗ trợ những đối tượng lao động thuộc diện gia đình
chính sách, gia đình người có công tham gia BHXH tự nguyện để giúp họ có
cơ hội tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm.
- Thành phố cần đề xuất với BHXH Việt Nam điều chỉnh chính sách
nhằm tạo điều kiện cho những người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu nhưng
tham gia đóng bảo hiểm chưa đủ số năm theo quy định, được đóng BHXH tự
nguyện một lần, đóng bù cho số năm còn thiếu để khi đủ tuổi họ được hưởng
chế độ hưu trí hằng tháng. Thực tế những người lao động ở độ tuổi 45 tuổi đối
với nam, 40 tuổi đối với nữ có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện để được
hưởng chế độ hưu trí hằng tháng, nhưng khi họ đến 60 tuổi đối với nam hoặc
55 tuổi đối với nữ thì số năm đóng BHXH mới được 15 năm, chưa đủ thời
gian theo quy định để được hưởng chế độ hưu trí hằng tháng. Việc quy định
cho phép được đóng bù số năm còn thiếu để được hưởng chế độ hưu trí hằng
tháng sẽ giúp cho những đối tượng này được tham gia BHXH tự nguyện và
góp phần mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, để
thực hiện được nội dung này, thành phố cần đề xuất với các cấp quy định mức
hưởng lương hưu của những đối tượng này chỉ ngang bằng với những người
đóng bảo hiểm hai mươi năm, nhằm đảm bảo công bằng đối với những người
tham gia bảo hiểm. Đồng thời, nhà nước cũng cần quy định mức đóng, tỷ lệ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi67
đóng cao hơn so đối với những đối tượng có số năm đóng ít hơn để đảm bảo
cân đối giữa thời gian đóng với mức đóng. Người lao động khi lựa chọn thời
gian đóng ngắn thì tương ứng phải đóng BHXH tự nguyện với mức đóng cao.
Để thực hiện được chính sách này thành phố cần đề xuất Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và BHXH Việt Nam tính toán, xem xét, đề xuất mức
đóng và thời gian đóng phù hợp đối với những đối tượng này.
Hoàn thiện các quy định về cách đóng BHXH tự nguyện
- Hiện nay, theo quy định thì cách đóng phí BHXH tự nguyện
là đóng hằng tháng, hằng quý hay sáu tháng một lần. Luật Bảo hiểm xã hội
2014 (Điều 87) đã quy định sửa đổi, mở rộng cách đóng BHXH tự
nguyện là đóng hằng tháng, hằng quý, sáu tháng một lần, một năm một lần,
một lần cho nhiều năm về sau theo hướng thấp hơn mức đóng hằng tháng
hay một lần cho những năm còn thiếu theo hướng cao hơn mức đóng hằng
tháng. Với việc quy định như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người
lao động trong việc tham gia BHXH tự nguyện.
Tuy nhiên, để chính sách BHXH tự nguyện được thực hiện rộng rãi và
mở rộng thêm đối tượng người lao động tham gia BHXH tự nguyện, nhất là
đối với những đối tượng lao động làm nông nghiệp, chăn nuôi, thu nhập của
họ thường theo mùa vụ, thành phố cần đề xuất với các cơ quan Trung ương
ban hành các quy định để tạo sự linh hoạt hơn trong cách đóng, có thể
quy định cách đóng hằng tháng, hằng quý, 6 tháng một lần hay một
năm, hai năm hay ba năm một lần hay có thể quy định cách đóng
một lần cho toàn bộ phí BHXH tự nguyện.
- Với việc quy định đa dạng các cách đóng sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Tuy nhiên,
để thực hiện được quy định này, cần tính toán cụ thể mức đóng, tỷ lệ trượt68
giá, lãi suất của ngân hàng, lạm phát của nền kinh tế ... để đảm bảo mức phí
phù hợp với các cách đóng nhằm đảm bảo sự bình đẳng, công bằng
giữa các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.
3.2.3. Bổ sung các quy định về quản lý và mở rộng các đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện
Hiện nay, công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có
những điểm chưa thật sự phù hợp, chưa ứng dụng hiệu quả công nghệ thông
tin vào phục vụ công tác quản lý. Trong khi đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện thường di chuyển địa bàn cư trú theo yêu cầu công việc, họ không thể
tham gia đóng BHXH tại một địa phương, do đó cần thực hiện một cách đồng
bộ việc số hóa sổ BHXH để tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc quản lý,
theo dõi quá trình đóng BHXH tự nguyện của người lao động. Thành phố Đà
Nẵng cần đề xuất với BHXH Việt Nam trong việc quy định thiết lập mã số
riêng cho mỗi người tham gia BHXH tự nguyện, khi thay đổi nơi đóng bảo
hiểm, nhân viên bảo hiểm chỉ cần tra mã số là đã có đầy đủ thông tin của
người lao động. Người lao động có thể đóng phí và thanh toán các chế độ
BHXH tự nguyện ở bất cứ nơi nào thuận tiện cho họ mà không cần thiết phải
về nơi đăng kí tham gia BHXH tự nguyện để tiến hành các thủ tục.
Để quản lý và mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện cần thiết
lập hệ thống đại lý BHXH tại các phường, xã nhằm hỗ trợ cho người lao động
trong việc tham gia BHXH tự nguyện. Hiện nay, việc thu chi quỹ BHXH bắt
buộc do BHXH thành phố và BHXH các quận, huyện trực tiếp thực hiện và sẽ
được trích tỷ lệ % trên tổng mức thu, chi để chi cho các đại lý tại xã, phường.
Nhưng đối với việc thu BHXH tự nguyện thì không có cơ chế để trích khoản
lệ phí này, do đó không khuyến khích các cán bộ và cơ quan BHXH tích cực
mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi69
Chính vì vậy cần có chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ cộng tác viên ở
các phường, xã và có những khoản chi tương ứng như hoa hồng phí của bảo
hiểm y tế để tạo động lực cho đội ngũ cộng tác viên tiếp cận từng hộ gia đình
để nắm tình hình, theo dõi, tư vấn họ tham gia và thực hiện tốt công tác quản
lý, tăng cường mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.
Bên cạnh đó, thành phố Đà Nẵng cần có chính sách quản lý tốt hơn nữa
lực lượng lao động chưa có việc làm để có kế hoạch hỗ trợ việc làm cho họ.
Cần có chính sách đào tạo nghề miễn phí cho các đối tượng lao động thông
qua các trung tâm đào tạo nghề ở các quận, huyện, nhất là những lao động ở
vùng nông thôn thuộc Huyện Hòa Vang, tạo điều kiện giới thiệu việc làm cho
họ, nhằm giảm dần tỷ lệ thất nghiệp. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ những
người lao động cùng kiệt vay vốn, thông qua các ngân hàng chính sách xã hội để
hỗ trợ họ vay vốn tín chấp và hỗ trợ với lãi suất ưu đãi để họ làm ăn và tham
gia đóng BHXH tự nguyện. Thành phố cần gắn kết chương trình cho vay với
chương trình mục tiêu giảm cùng kiệt của thành phố để hỗ trợ những người lao
động cùng kiệt có việc làm và vươn lên thoát nghèo.
3.2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức, viên chức trong tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện
Việc triển khai bất kì chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đề
ra đòi hỏi cần có nhân tố con người. Con người là nhân tố quan trọng, có
vai trò tác động mạnh mẽ đến hiệu quả của việc triển khai thực hiện chính
sách. Do đó, để triển khai thực hiện tốt chính sách BHXH tự nguyện tại thành
phố Đà Nẵng, đòi hỏi cần xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo các yếu tố
cả về thể lực và trí lực. Trong những năm qua, thành phố Đà Nẵng đã thực
hiện nhiều chủ trương, biện pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy
mạnh việc cải cách thủ tục hành chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của70
cơ quan công quyền, giảm các thủ tục hành chính, gây phiền hà cho người
dân. Tuy nhiên, một số bộ phận cán bộ công chức, viên chức làm công tác
BHXH đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác đề ra, một số
nơi vừa thiếu lại vừa thừa cán bộ. Trong công cuộc đổi mới đất nước cần
nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung
và cán bộ, công chức, viên chức làm công tác BHXH nói riêng. Để thực hiện
được nhiệm vụ này thành phố cần thực hiện một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, Bảo hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng cần tăng cường hơn nữa
công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức rút kinh nghiệm
việc triển khai thực hiện chính sách BHXH tự nguyện cho đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác BHXH ở thành phố và các quận, huyện để
đảm bảo tính thống nhất trong quy trình tiếp nhận, giải quyết các chế độ
BHXH tự nguyện đúng quy định, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và hạn
chế thấp nhất những sai sót xảy ra trong thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó, khi
tuyển dụng cán bộ về công tác tại các cơ quan BHXH thành phố, các quận,
huyện đòi hỏi cần có trình độ chuyên môn phù hợp với từng vị trí, chức
danh tuyển dụng, phải biết sử dụng thành thạo các ứng dụng tin học để phục
vụ công tác.
Thứ hai, cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức cho từng giai đoạn phát triển của thành phố Đà Nẵng; thành phố
cần dành một khoản kinh phí để hỗ trợ cán bộ, công chức các cơ quan BHXH
thành phố tham gia đào tạo ở nước ngoài theo Đề án phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao của thành phố. Đồng thời, thường xuyên dành kinh phí để
đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, các phần
mềm chuyên ngành của bảo hiểm để góp phần nâng cao hiệu quả công tác
quản lý và thực hiện nghiệp vụ, chuyên môn. Đối với cán bộ trực tiếp làm
công tác triển khai hướng dẫn nghiệp vụ BHXH tự nguyện cần được đào
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi71
tạo chuyên sâu về chuyên môn; mời các chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực BHXH tự nguyện để trao đổi kinh nghiệm, tập huấn
nghiệp vụ cho cán bộ; có kế hoạch cử cán bộ đi học tập, trao đổi kinh nghiệm
triển khai thực hiện công tác bảo hiểm ở các nước đã có nhiều năm triển khai
chế độ này để tham mưu tổ chức thực hiện tại Việt Nam.
Thứ ba, cần nâng cao hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, ý
thức trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán bộ công chức, viên chức; cần xây
dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức đối với từng cấp,
từng đơn vị trực thuộc để làm căn cứ cho việc tuyển dụng, bố trí cán bộ đảm
bảo yêu cầu công tác.
Thứ tư, các cơ quan BHXH thành phố và các quận, huyện cần xây
dựng, ban hành các quy chế, quy định, công khai các thủ tục cụ thể về các
nghiệp vụ công tác bảo hiểm để thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận
thông tin và thực hiện các thủ tục hành chính liên quan. Đồng thời, tăng
cường hơn nữa kỷ cương, kỷ luật hành chính, đấu tranh ngăn chặn các hiện
tượng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nêu cao hơn nữa trách nhiệm của
người đứng đầu trong việc thực thi nhiệm vụ.
3.2.5. Về tổ chức thực hiện
Trong những năm qua , thành phố Đà Nẵng đã tri ển khai nhiều biêṇ
pháp nhằm tăng cườ ng cải cách thủ t ục hành chính , đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin vào phục vụ công tác ở các cơ quan hành chính , công
khai các thủ t ục, quy trình giải quy ết các nghiệp vu ̣công tác nhằm nâng
cao hơn nữa trách nhi ệm của các cơ quan công quyền trong vi ệc giải
quyết các thủ t ục cho ngườ i dân và th ực hiêṇ t ốt hơn nữa Chương trình
cải cách hành chính giai đoạn 2010-2020. Đối với lĩnh v ực BHXH bắt
buộc và BHXH tự nguyêṇ , cơ quan BHXH thành phố đã từ ng bư ớc nâng72
cao hơn nữa ch ất lươṇ g giải quy ết các nghiệp vu ̣công tác , thực hiêṇ t ốt
các thủ t ục hành chính thông qua việc tiếp nhâṇ , trả hồ sơ ở bộ phận m ột
cử a, quy định thời gian cụ thể về việc thực hiện các thủ tục BHXH . Qua
đó đã taọ điều kiêṇ thu ận lơị hơn cho ngườ i dân trong vi ệc tham gia các
hoạt đôṇ g bảo hi ểm.
Trong thời gian đến, để đảm bảo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội
thành phố Đà Nẵng đã đề ra, đòi hỏi BHXH thành phố cần tăng cường hơn
nữa chất lượng đội ngũ cán bộ công chức viên chức, nâng cao trách nhiệm,
nêu gương, vai trò của người đứng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Thường xuyên kiện toàn, rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức và người lao động thuộc thẩm quyền quản lý để có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng, điều động, luân chuyển, đề bạt phù hợp.
Bên cạnh đó, BHXH thành phố Đà Nẵng cần điều chỉnh , bổ sung
một số nôị dung sau :
- Cần xây dựng các quy trình, thủ tục hành chính về việc xét hưởng chế
độ cho người lao động nhằm đảm bảo tính linh hoạt, thời gian giải quyết ngắn
hơn và đảm bảo tính chính xác cao. Cần nghiên cứu cắt giảm những thủ tục
rườm rà, không cần thiết gây khó khăn, phức tạp cho người lao động khi tham
gia BHXH tự nguyện cũng như khi giải quyết các chế độ bảo hiểm.
- BHXH thành phố cần linh hoạt hơn, chủ động hơn trong việc thông
tin về chính sách BHXH tự nguyện cho người lao động để họ nắm được các
thủ tục, mức đóng và cách thức đóng góp, tạo điều kiện thuận lợi hơn để họ tự
nguyện tham gia BHXH tự nguyện. Bên cạnh đó, cần linh hoạt trong việc chi
trả các chế độ BHXH cho người lao động khi có những phát sinh quyền lợi
bảo hiểm.
- BHXH thành phố cần dành khoản kinh phí thích hợp để đầu tư trang
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi73
thiết bị tin học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ công tác
quản lý, tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách cho người lao động nhằm
đưa công tác quản lý, thực hiện BHXH ngày càng thuận lợi hơn, hiệu quả và
chính xác hơn.
- Để triển khai thực hiện BHXH tự nguyện đạt kết quả tốt hơn nữa,
BHXH thành phố cần đề xuất BHXH Việt Nam và các ngành liên quan trong
việc hỗ trợ kinh phí, cho phép triển khai hình thành mạng lưới liên kết hoặc
cộng tác viên ở cơ sở để nắm tình hình, khả năng của người lao động để vận
động người lao động tham gia BHXH tự nguyện. Việc triển khai hình thành
mạng lưới liên kết, cộng tác viên ở cơ sở cần nghiên cứu các mô hình liên kết
các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức quần chúng ở các tỉnh, thành
trong cả nước để học hỏi kinh nghiệm nhằm triển khai phù hợp với tình hình
thực tế của từng địa phương.
- Theo quy định của Luật BHXH, nguồn hình thành quỹ BHXH tự
nguyện có sự hỗ trợ của nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ
thể về đối tượng, cơ chế hỗ trợ và mức hỗ trợ của nhà nước đối với những đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện. Thành phố cần dành khoản kinh phí để hỗ
trợ đối với những nhóm đối tượng đặc thù, những gia đình chính sách, người
có công khi tham gia BHXH tự nguyện, điều này thể hiện sự quan tâm, nhân
đạo của nhà nước và bảo đảm quyền lợi của những đối tượng đặc thù.
- Hiện nay, nguồn hình thành quỹ BHXH tự nguyện chủ yếu là do
người lao động đóng góp, thành phố Đà Nẵng chưa hỗ trợ thêm kinh phí cho
quỹ và chưa triển khai các hoạt động đầu tư để tăng trưởng quỹ. Trong thời
gian đến, thành phố cần đề xuất BHXH Việt Nam trong việc triển khai các
hoạt động đầu tư quỹ và ban hành các quy định cụ thể để quản lý chặt chẽ các
hoạt động đầu tư quỹ BHXH, nhằm đảm bảo phát triển quỹ an toàn, tạo điều74
kiện thuận lợi để thực hiện tốt hơn các chế độ cho người tham gia BHXH tự
nguyện.
- BHXH thành phố cần dành khoản kinh phí thích hợp để đào tạo cán
bộ nghiệp vụ ở các cấp đảm bảo yêu cầu về trình độ nghiệp vụ, chuyên môn
kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công tác ở từng bộ phận chức năng. Đồng thời, cần
đề xuất với BHXH Việt Nam, các cơ quan ban, ngành Trung ương trong việc
hình thành tổ chức chuyên quản lý sự nghiệp BHXH tự nguyện từ trung ương
đến địa phương. Việc hình thành các tổ chức này đòi hỏi cần đào tạo đội
ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhằm thực hiện
tốt hơn chính sách BHXH tự nguyện.
- BHXH thành phố Đà Nẵng cần nghiên cứu đề xuất với Trung ương
trong việc cho phép được trích khoản lệ phí theo tỷ lệ % trên tổng mức thu,
chi ở các quận, huyện để chi cho các đại lý tại phường, xã làm công tác thu,
chi giống như quy định thu chi quỹ BHXH bắt buộc để khuyến khích các đơn
vị BHXH cũng như các cán bộ tích cực mở rộng đối tượng tham gia BHXH
tự nguyện.
3.2.6. Một số kiến nghị khác
Hiện nay, số lượng người lao động tham gia BHXH tại thành phố Đà
Nẵng qua 6 năm là 631 người [12, tr.12], có số này còn thấp rất nhiều so với
tiềm năng và nhu cầu của người lao động của thành phố. Một trong những
nguyên nhân chính là do công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH
tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng chưa thật sự đến với người lao động. Đối
tượng lao động tiếp cận thông tin tuyên truyền qua các phương tiện thông tin
đại chúng chưa cao. Mặt khác, nhận thức của người dân đối với BHXH tự
nguyện còn hạn chế, họ chưa quan tâm, chưa nhận thấy được những lợi ích
của việc tham gia BHXH tự nguyện và chưa tin tưởng vào hiệu quả của loại
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi75
hình bảo hiểm này. Chính vì vậy, BHXH thành phố cần tăng cường hơn nữa
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để người lao động hiểu rõ hơn về
chính sách, chế độ BHXH tự nguyện và những lợi ích của nó để tự nguyện
tham gia.
BHXH thành phố cần chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí trên địa
bàn thành phố tăng cường thông tin, tuyên truyền kịp thời, phổ biến chính
sách BHXH tự nguyện đến với mọi người lao động trên địa bàn thành phố,
nhất là đối với những người lao động ở vùng nông thôn, miền núi thuộc
Huyện Hòa Vang. Đối với địa bàn nông thôn cần thành lập các đội công tác tự
nguyện do lực lượng thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân làm nòng cốt để
đến các đội sản xuất, hợp tác xã để tuyên truyền, vận động. Tại các trung tâm
đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cần đưa vào chương trình đào tạo nội dung
phổ biến kiến thức về bảo hiểm xã hội cho người lao động, để những học viên
này có kiến thức hiểu biết về BHXH tự nguyện và khi có việc làm họ sẽ tự
nguyện tham gia.
BHXH thành phố cần phối hợp với các tổ chức tư vấn pháp luật để đưa
nội dung BHXH tự nguyện vào nội dung hoạt động của tổ chức, nhằm phổ biến,
tuyên truyền về chính sách này cho người dân. Chủ động định kì tổ chức các
buổi tập huấn cho các báo cáo viên thuộc hệ thống tuyên giáo cấp cơ sở để
thông qua họ phổ biến, tuyên truyền lại cho người dân về chế độ BHXH tự
nguyện. Ngoài ra, BHXH thành phố cần dành kinh phí hằng năm tổ chức các
lớp tập huấn, đào tạo cho người lao động và người sử dụng lao động về chính
sách, pháp luật BHXH để thông qua đó giúp người lao động hiểu rõ hơn về
chính sách BHXH tự nguyện để họ tham gia.
BHXH thành phố cần đề xuất với các cấp điều chỉnh, sửa đổi quy định
về giảm độ tuổi hưởng chế độ hưu trí đối với lao động làm nghề hay công76
việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm nhằm tạo điều kiện để mở rộng thêm đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện. Đề xuất các cấp cho phép các cơ quan liên
quan được ủy quyền trợ giúp cho người lao động trong việc thực hiện các thủ
tục tham gia BHXH tự nguyện và trợ giúp cho người lao động trong những
lúc người lao động bị thất nghiệp hay mất mùa… Đồng thời, đề xuất các cấp
quy định cụ thể đối tượng là thân nhân của người lao động để thuận lợi hơn
trong việc giải quyết các chế độ tử tuất

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

coldrick

New Member
Luận văn tiếng Anh: Thực trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07
Link tải Free download cho anh em Ketnooi:

ban ơi, giúp mình với file này mình không tải được. bạn có thể gửi giúp mình vào mail: [email protected] được không/
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thi công công trình xây dựng, áp dụng cho dự án đầu tư xây dựng bệnh viện sản nhi Quảng Ninh Y dược 0
D Hậu quả của nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ miền núi thực trạng tại huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thi Văn hóa, Xã hội 0
Z Thực trạng công tác hạch toán kế toán tổng hợp tại Công ty Thương mại dịch vụ Tràng Thi Luận văn Kinh tế 0
B Thực trạng xây dựng và thực thi chiến lược kinh doanh của Công ty Du lịch dịch vụ Tây Hồ trong những Khoa học kỹ thuật 0
B Lễ hội thi bắn pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng, thực trạng và giải pháp Marketing Địa lý & Du lịch 0
W Thực trạng và triển vọng của Việt Nam trong gia nhập và thực thi Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ Kinh tế quốc tế 0
B Pháp luật thi hành án dân sự, thực trạng và giải pháp, liên hệ thực tiễn ở tỉnh Hải Dương : Luận văn Luận văn Luật 0
C Thực trạng thi hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận đầu tư theo luật đầu tư 2005 : Luận văn ThS. Lu Luận văn Luật 0
L Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam Luận văn Luật 0
V Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 5 Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top