chocopie_babe

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
A.Mở Bài

Giao dịch dân sự là một trong những cách hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất, kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự (BLDS) nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Các quy định đó của BLDS đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tê – xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Trong các giao dịch dân sự ở nước ta đã xảy ra không ít các vụ việc tranh chấp trong giao dịch mà đặc biệt là vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu. Thực tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân (TAND) thì vấn đề giải quyết các hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu không thuần tuý chỉ căn cứ vào quy định của BLDS mà nó còn phụ thuộc và nhiều yếu tố trong thực tế mà đôi khi không được quy định trong BLDS. Quá trình thực hiên BLDS bên cạnh các mặt tích cực thì không thể tránh khỏi những thực trạng còn tồn tại. Mà phải kể đến số lượng các vụ tranh chấp về dân sự ngày càng tăng, trong đó các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết các hậu quả pháp lý của nó để lại là một vấn đề còn rất nhiều tranh cãi.
Với bài làm đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” em hi vọng có thể phần bào một phần nào đó làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý về giao dịch dân sự, làm rõ chế định giao dịch dân sự vô hiệu trong chế định chung về giao dịch vè căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu. Đồng thời từ thực trạng của các giao dịch dân sự nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu nói riêng còn đang tồn tại ở nước ta em sẽ đưa ra một số ý kiến riêng nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về giao dịch dân sự ở nước ta.

B. Nội Dung:

I. Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự có hiệu lực:
1, Giao dịch dân sự:
Theo Điều 121 BLDS 2005 :“Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý dơn phương hay hợp đồng của cá nhân, pháp nhân hay của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hay làm chấm dưt quyền và nghĩa vụ dân sự”
2. Giao dịch dân sự có hiệu lực:
Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi pháp lý nào đều là giao dịch dân sự hợp pháp. Một giao dịch muốn được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó thì hành vi của người tham gia giao dịch phải trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Theo pháp luật Việt Nam thì giao dịch muốn được pháp luật dân sự công nhận và bảo vệ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 122 BLDS 2005 đó là:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự.
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hôi.
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện để có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
2.1. Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự: “người” ở đây bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các chủ thể này tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực hành vi dân sự:
Đối với cá nhân: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhát giưax ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và nhận thức đuợc hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao dịch. Cho nên, giao dịch dân sự do các nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân (từ điều 17 đến điều 23 BLDS năm 2005)
“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập , thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự” (theo Điều 17 BLDS 2005) ….
Tuy nhiên không phải cá nhân nào cũng có năng lực hành vi dân sự hoàn toàn mà có trường hợp có những cá nhân bị hạn chế, hay chỉ nó năng lực hành vi dân sự một phần thì trường hợp này cần có những người thay mặt cho họ đứng ra để đảm bảo cho họ trong giao dịch dân sự.
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đuợc toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.
+ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hay người giám hộ đồng ý …)
+ Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không đuợc phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người thay mặt theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Còn đối với các chủ thể khác: pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các chủ thể này tham gia giao dịch dân sự thông qua người thay mặt của họ. Tuy nhiên pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đền hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực sản xuất và kinh doanh khác theo qui định của pháp luật (Điều 106 BLDS 2005). Tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS 2005).
2.2. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hôi:
Mục đích tức là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch dân sự nào đó.
Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch.
Tất cả nội dung và mục đích của bất kì một giao dịch dân sự nào đều phải phù hợp vơi pháp luật không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia giao dịch dân sự và giao dịch dân sự mới có hiệu lực.
2.3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện:
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí, và bày tỏ ý chí, cho nân tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí, thiếu một yếu tố đó không còn là tự nguyện. các bên tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện: tự do, tự nguyện câm kết, thỏa thuận, vi phạm sự tự nguyện chính là vi phạm thỏa thuận, và vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc tự do, tự nguyên cam kết, thỏa thuận được quy định tại Điều 4 BLDS 2005.
2.4. Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật:
Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch, Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết đuợc nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa cá bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lực chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ thao (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được Công chứng nhà nước chứng nhân, được chứng thực, đăng ký hay phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 124 BLDS năm 2005)
II. Giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Khái Niệm:
Theo Điều 127 BLDS 2005 thì: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được qui định tại Điều 122 của bộ luật này thì vô hiệu”.
Ví phạm các điều khoản tại Điều 122 thì giao dịch sẽ không có giá trị pháp lý ngay từ thời điểm ký kết nêu giao dịch chưa được thực hiện hay đang thực hiện thì không còn được thực hiện nữa, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những điều đã nhận. Như vậy ta khẳng định rằng chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Những quy định về sự vô hiệu của gia dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý chủ cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.
Giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 127 đến Điều 138 của BLDS 2005.
2. Các loại giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự vô hiệu có thể phân thành 2 nhóm chính: Vô hiệu tuyệt đối ( vô hiệu đương nhiên); vô hiêu tương đối (do toà án tuyên). Sự phân loại nêu trên có cơ sở dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của hai khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Thú nhất là sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch, vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu, còn vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người co quyền, lợi ích liên quan và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Thứ hai là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Tòa nán tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (Điều 136 BLDS năm 2005). Riêng trường hợp vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức cũng thuộc nhóm vô hiệu tuyệt đối, nhưng theo quy định của Điều 136 BLDS năm 2005 thì thời hạn yêu cầu tuyên bố vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập. Thứ ba, giao dịch dấn ự thuộc trường hợp vô hiệu tueyetj đối có thể bị vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà đường nhiên không có giá trị. Còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, thì quyết định của Tòa án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Thứ tư là sự khác biệt về mục đích. Các trường hợp pháp luật quy định giao dịch vô hiệu tuyệt đối nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công, còn các trường hợp pháp luật quy định vô hiệu tương đối nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho chính các chủ thể tham gia giao dịch.
Vô hiệu tuyệt đối: các trường hợp sau bị coi là vô hiệu tuyệt đối:
+) Khi vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 128 BLDS 2005)
+) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác, hay trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ 3. (Điều 129 BLDS 2005)
+) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ những qui định của pháp luật (Điều 134 BLDS 2005)
Vô hiệu tương đối khi có các trường hợp sau:
+) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 130 BLDS 2005)
+) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 131 BKDS 2005)
+) Khi một bên tham gia giao dịch bị lừa dối, đe doạ (Điều 132 BLDS 2005)
+) Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005).
2. Vụ việc thứ 2:
A là thành viên của 1 Công ty TNHH có 3 thành viên A,B,C. Năm 2002 vì cần vay tiền Ngân hàng nên A đồng ý cho công ty mượn tài sản là 1.1992m2 đất để thế chấp vay. A,B,C đã lập 1 biên bản giả có nội dung: công ty uỷ quyền cho A mua đất chứ không phải đất của A. Nhưng biên bản này không được Ngân hàng chấp nhận vì thế họ đã phải làm thủ tục bảo lãnh cho công ty vay tiền Ngân hàng bằng quyền sử dụng đất của A. Tháng 4/2005 A xin rút khỏi Công ty và Công ty chỉ còn 2 thành viên B và C. Đến tháng 6/2005 Công ty trả hết nợ, lấy các giấy tờ bảo lãnh tại ngân hàng, nhưng không trả lại giấy tờ đất cho A mà lại tiến hành khởi kiện đòi A phải giao đất cho công ty. Căn cứ kiện là biên bản giả lập ban đầu mà A sơ xuất không huỷ sau khi Ngân hàng không chấp nhận. Vậy, A có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình đối với mảnh đất?
Như vậy, biên bản có nội dung "diện tích 1.992m2 là tài sản của công ty, ông A chỉ là người đứng tên" chỉ là biên bản giả được các thành viên công ty thoả thuận lập ra nhằm mục đích để Ngân hàng cho vay tiền (vì theo quy định người vay phải có tài sản thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay). Tuy nhiên Ngân hàng đã không chấp nhận biên bản này mà yêu cầu ông A đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của Công ty (vì ông A là người đứng tên quyền sử dụng đất). Yêu cầu của Ngân hàng là phù hợp với quy định của điều 366 Bộ luật dân sự cụ thể: "1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ. 2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình" .
Việc Ngân hàng đã chấp nhận sự bảo lãnh của ông A (bằng tài sản 1.992m2 đất do ông đứng tên) và cho Công ty của ông vay tiền là căn cứ để chứng minh: biên bản do 3 thành viên của công ty lập chỉ là giao dịch dân sự giả tạo còn giấy tờ đất đứng tên ông mới là giao dịch thật. Căn cứ điều 138 Bộ luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau: "Khi các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực".
Vì ông A đã sơ xuất không huỷ biên bản giả này nên Công ty (cụ thể là 2 thành viên B và C còn lại sau khi ông A đã rút khỏi Công ty) đã sử dụng để làm căn cứ kiện đòi ông phải giao đất. Căn cứ khoản 2 điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự quyền của bị đơn khi tham gia tố tụng như sau: "a). Có quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho toà án". Do đó ông có thể yêu cầu Ngân hàng cung cấp các tài liệu gồm: hồ sơ vay vốn ban đầu (có sử dụng biên bản giả) và hồ sơ vay vốn lần thứ hai (có giấy tờ của ông cam kết bảo lãnh cho công ty vay tiền bằng tài sản của ông là quyền sử dụng 1.992m2 đất). Các chứng cứ này sẽ giúp ông chứng minh quyền sở hữu của ông đối với diện tích 1.992m2.(căn cứ theo phần tư vấn pháp luật của báo Kinh tế và đô thị )
V. Thực trạng - Giải pháp đối với việc áp dụng luật, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự tại Tòa án ở nước ta.
Theo như thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng thì hiện nay ở nước ta hàng năm số lượng án giao dịch dân sự chiếm tỷ lệ khá lớn so với các án dân sự và hôn nhân gia đinh, chiếm một tỷ lệ cao khoảng 70% - 80%, số lượng án giao dịch dân sự vô hiệu chiếm khoảng 15% - 20%, số lượng án giải quyết ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa còn cao hơn 50%. Với một số lượng lớn như vậy thì trong thực tiễn còn đang tồn tại thì hiện nay khi các bên tham gia giao dịch dân sự thông thường không nắm được những quy định pháp luật mà chủ yếu giao dịch dưới dạng tự phát , dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà các bên vẫn không biết, vẫn thực hiện khi tranh chấp mới có yêu cầu hủy. khi giả quyết sự việc đã rồi các thẩm phán thường lúng túng, cân nhắc có nên hủy hay không, nêu hủy giao dịch dân sự vô hiệu thì phù hợp với pháp luật nhưng không phù hợp với thực tiễn và ngược lại, thậm chí có trường hợp tuyên bố hủy nhưng vẫn công nhận. Mặt khác diễn biến của giao dịch dân sự vô hiệu phức tạp, sự phức tạp này do sự biến đổi về giá cả thị trường, có tài sản bị chênh lệch giá cả giữa lúc xác lập giao dịch so với lúc giải quyết là rất lớn gấp 4, 5 lần thậm trí gấp 10 lần. trong khi đó đường lối giải quyết hậu quả của các giao dịch dân sự vô hiệu lại không nhất quán giữa các thành viên trong hội đồng xét xử, không mang lại công bằng cho các bên đương sự, chính vì lẽ đó nhiều khi dương sự đã lợi dụng sơ hở của pháp luật đã thất hứa, yêu cầu hủy giao dịch dân sự nhằm chuộc lợi cho mình. Rồi có tình trạng có những vụ án đã giải quyết nhiều lần, nhiều cấp khác nhau xét xử, có những vụ án đã được xét xử ở giai đoạn cao nhất là Hội đồng Thẩm phán mà vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại căng thẳng. vì vậy mà các ngành chức năng nên tìm ra một hướng đi có lợi nhất cho vấn đề này. Trước tiên vấn đề quan trọng nhất đó là giáo dục cho mọi người dân hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật dân sự về vấn đề giao dịch dân sự nói riêng. Bởi lẽ có làm được điều này thì chúng ta sẽ hạn chế được một số lượng đáng kể các vụ việc tranh chấp về giao dịch dân sự vô hiệu. Thêm vào đó về phía những người cầm cán cân công lý chúng ta cần bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết hơn nữa cho các thẩm phán… và giữa những người trong nội bộ hội đồng xét sử không chỉ các vụ án về giao dịch dân sự mà các vụ án về vấn đề khác cũng cần có được tiếng nói chung. Tránh tình trạng mỗi người một quan điểm, mỗi cấp một quan điểm như vậy se chỉ làm cho nhân dân mất lòng tin có thể còn dẫn đến tình trạng một số đối tượng lợi dụng sự bất đồng quan điểm đó nhằm chuộc lợi cho bảnn thân. Đối với các quy định của pháp luật cũng nên đổi mới một số vấn đề như đã nêu ở phần “hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu” trên. Ngoài ra các cấp chính quyền cũng cần xiết chặt hơn nữa công tác quản lý về các mặt của đời sống của nhân dân để hạn chế được phần nào các vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm các hợp đồng giao dịch dân sự nói riêng…

C. Kết Luận:

Ta có thể thấy được một thực trạng ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội thì các vụ tranh chấp về giao dịch dân sự vô hiệu cũng ngày một nhiều lên, và ngày càng biến đổi đa dạng và có tính chất càng phức tạp hơn. Đây là một vấn đề nóng hổi và mang tính thời sự cao nó gắn liền với sự phát triển của đất nước càng ngày quyền dân chủ của nhân dân càng được thực hiện rộng rãi hơn nhưng cũng chính vì thế mà nhân dân vi phạm pháp luật lại càng nhiều hơn. Đặc biệt vi phạm các vụ việc liên quan đến giao dịch dân sự khiến cho bao nhiêu giao dịch dân sự phải vô hiệu và gây thiệt hại không nhỏ cho các bên tham gia giao dịch thậm chí thiệt hai cho cả nhà nước có vụ lên đến hàng tỉ đồng. Vì vậy mà nhiệm vụ đặt ra trước hết cho các nhà làm luật Việt Nam là cần xiết chặt hơn nữa các quy định của pháp luật về mọi vấn đề của đời sống dân sự cũng như các lĩnh vực pháp luật khác. Đồng thời mỗi cá nhân cần có ý thức tự giác chấp hành pháp luật hơn nữa. Có như vậy, vấn đề kỉ cương pháp luật nói riêng cũng như đời sống xã hội nói chung mới có thể phát triển mạnh mẽ và chất lượng hơn.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top