ooh_happyday

New Member

Download miễn phí 13.NCKh_HoangAnhTuan





Điều này đã lý giải tại sao trong các hình ảnh về con vật

này trong các thành ngữ tục ngữ tiếng anh ý nghĩa: “ kém giá trị, tham ăn” lại

được thể hiện rõ nét như vậy (6/19 trường hợp). So với con chó và một số vật

nuôi khác như bò, ngựa, cừu. thì trí thông minh của lợn kém hơn rất nhiều vì

thế ý nghĩa ngu muội, đần độn cũng có cơ hội phát triển ( 2/19 trường hợp).

Nhưng nổi bật hơn cả là ấn tượng về sự bẩn thỉu kém may mắn của loài vật

này(9/19 trường hợp). Ngư dân ở đông bắc nước Anh xem lợn như là con vật

báo hiệu vận xui. Vì thế khi đi thuyền mà nhìn thấy lợn anh ta lập tức quay về

nhà, thậm chí điều này còn được mở rộng ra bằng một lệnh cấm sự xuất hiện

của loài vật này trên những con thuyền lớn. “Fisherman in North East England

regarded pigs as harbingers of bad luck. Pigs would not be carried on boats: a

fisherman seeing a pig on his way to work would turn round and go home. This

even extended to a prohibition of the word "pig" on board a vessel.”[ 7]





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


c tới nay, tuy mỗi tác giả có thể nêu một danh sách từ loại khác
nhau về tên gọi, về sự phân loại, nhưng tuyệt nhiên không có một lớp từ loại
nào được gọi tên là “từ xưng hô”. Như vậy, ta có thể nói rằng, xưng hô là một
chức năng chứ không phải là một từ loại [20] .
Trong phạm vi này chúng tui nhất trí với quan điểm của Nguyễn Thị Ly Kha
khi cho rằng “xưng hô là một chức năng chứ không phải là một từ loại”. Và
quan niệm đại từ xưng hô là từ được người nói dùng để tự chỉ mình hay chỉ
người khác khi giao tiếp.
2.1.2 Vai trò của đại từ xƣng hô
Nói đến giao tiếp ta không thể không nói đến khái niệm nhân xưng (hay
xưng hô), vốn là cái lõi của các dạng thức xưng hô, xuất phát từ chức năng trỏ
ngôi (chỉ xuất) về người. Đó là một hệ thống đại từ biểu thị một phạm trù ngữ
pháp của Ngôi, mà hệ thống các từ này ở trong tiếng Anh được tạo bởi một loạt
các hình thái từ đơn giản I, you, she, it, they và các biến thể như me, mine,
yours, him, his". Điều này khẳng định, khi nói đến hình thái xưng hô phải nói
đến đại từ xưng hô, có nghĩa là nhấn mạnh chức năng trỏ ngôi, thường được gọi
là phạm trù ngữ pháp ngôi.
So với các nhóm từ khác, đại từ xưng hô của ngôn ngữ tuy không nhiều về
số lượng nhưng lại có giá trị sử dụng rất lớn,được sử thường xuyên trong giao
36
tiếp. Có thể nói có giao tiếp ngôn ngữ là có xưng gọi. Đại từ xưng hô là một
trong những yếu tố tạo ra nét phong phú của ngôn từ của một ngôn ngữ. Nó
thể hiện mối quan hệ thứ bậc, thái độ và tình cảm giữa những người đối thoại.
Chính vì lý do đó, chúng tui đã lựa chọn lớp từ này để tìm hiểu đặc trưng văn
hóa dân tộc. Bởi xét cho cùng, chính giao tiếp đã làm nên xã hội và không đâu
khác các đại từ xưng hô chính là nơi chủ thể giao tiếp thể hiện cách ứng xử của
mình với cộng đồng. Suy rộng ra nó chính là cách ứng xử của cộng đồng đó với
thế giới xung quanh.
2.1.3 Một số đặc điểm nổi bật của đại từ xƣng hô của tiếng Việt (trên cơ
sở đối chiếu với tiếng Anh)
Có thể nói so với tiếng Việt và thậm chí là nhiều ngôn ngữ khác tiếng Anh
có một hệ thống các đại từ nhân xưng khá đơn giản, chỉ gồm: I, you, he, she,
they, we, it và các biến thể của chúng về ngôi, giống, cách: me, you, him, her...
Ngôi thứ nhất và hai (I - you) vốn được sử dụng rất rộng rãi khi nói cũng như
viết với bất cứ ai, không phân biệt tuổi tác, giới tính, vị thế xã hội, quan hệ giữa
người nói và người nghe, ví dụ:
Hai nhân vật trong hội thoại này là một cô gái trẻ, Jane và một người đàn
ông hơn Jane 20 tuổi, ông Rochester.
Rochester: “I love you. You, small and poor and plain, I ask you to
marry me!”
Jane: “You want to marry me, I cried, almost beginning to believe
him. But I have no friends, no money, no family”
(Rochester: tui yêu em! Em, một người con gái nhỏ bé, cùng kiệt và giản dị,
tui muốn hỏi cưới em!” Jane: “Ông muốn cưới em ? tui nói đầy vẻ ngạc nhiên
và tui bắt đầu cảm giác tin ông. Nhưng em không có bạn bè, không có tiền bạc
và cũng không có gia đình). [16:196, 205].
37
Tuy nhiên, trong thực tế những hình thức xưng hô của tiếng Anh cũng có
nhiều sự biến đổi, gắn với một số hình thức xưng hô khác. Theo Brown tiếng
Anh tồn tại một số hình thức xưng hô sau đây [dẫn theo:16:186].
- Tên riêng, ví dụ: Michael Nixson(Nixson), Marry King (King) Chức
danh, ví dụ: professor(giáo sư), Dr(tiến sỹ), Mr (ông), Miss(cô)
- Chức danh + tên họ: professor Brown(giáo sư Brown),Mr Clinton
(Ông Clinton).
- Tên họ, ví dụ: Michael Nixson(Nixson), Marry King (King)
Trong những nhóm xưng hô ngoài đại từ nhân xưng thì nhóm chức danh +
tên họ là nhóm được xử dụng rộng rãi và có tần xuất cao hơn cả. Nhóm quan hệ
thân tộc kiểu như (uncle Tom (bác Tom)), được sử dụng trong phạm vi hẹp, và
tần số thấp [16]. Điều này khác hẳn với tiếng Việt, nơi mà nhóm từ chỉ
quan hệ thân tộc dùng để xưng hô lại rất phát triển. Để có thể thấy được những
khác biệt cơ bản của nhóm từ này giữa tiếng Việt và tiếng Anh chúng ta có thể
tìm hiểu những đặc điểm nổi bật của nhóm từ này .
Một trong những dấu hiệu dễ nhận thấy nhất đối với hệ thống các đại từ
xưng hô trong tiếng Việt là trong tiếng Việt không có một đại từ nhân xưng
(hay hồi chỉ) trung hoà. Không phải tiếng Việt không có những đại từ nhân
xưng chính danh. Tôi, anh, nó, hắn (chúng tôi, các anh, chúng nó) và họ, có thể
coi là những đại từ nhân xưng và hồi chỉ chính danh. Nhưng trừ họ (đại từ hồi
chỉ ngôi thứ ba số phức) ra, tất cả các đại từ này đều được cảm thụ như không
được lễ độ, và không thể dùng trong khi giao tiếp với người dưng trong khuôn
khổ xã giao bình thường, và ngay cả họ cũng không phải lúc nào cũng dùng
được (chẳng hạn không thể dùng thay cho cha mẹ hay người thân tộc ở bậc trên
so với người nói).
38
Đại từ xưng hô trong tiếng Việt có xu hướng đại từ hóa nhiều từ chỉ quan hệ
thân tộc và nghề nghiệp... làm đại từ xưng hô. Theo nhiều nhà nghiên cứu sở dĩ
có hiện tượng này là “gánh nặng” của ngữ pháp đã được đẩy sang cho từ vựng.
Hay nói cách khác phạm trù ngôi – một phạm trù phổ biến trong nhiều ngôn
ngữ hòa kết, trong tiếng Việt đã được từ vựng hóa. Vì thế Cao Xuân Hạo đã rất
có lý khi nhận định: “Như vậy, có thể tin rằng đã hình thành một hệ thống đại từ
nhân xưng, hay ít nhất là đã có một quá trình ngữ pháp hoá các đại từ tương tự
như quá trình ngữ pháp hoá (hư hoá) các danh từ chỉ “phía” trên, dưới, trong,
ngoài thành những giới từ đánh dấu vai định vị (locative) và quá trình ngữ pháp
hóa các vị từ có ý nghĩa di chuyển như lên, xuống, ra, vào, qua, sang, đi, về, lại,
đến, tới thành những giới từ chỉ đích (target hay goal), cũng được khu biệt với
các thực từ gốc bằng tiêu chí”mất trọng âm” – một phương tiện chung của tiếng
Việt để khu biệt hư từ với thực từ. Có thể hình dung sự chuyển đổi này như sau:
- Giữ nguyên vỏ âm thanh của từ xuất phát ;
- Mang nghĩa mới, nghĩa mới này có quan hệ nhất định với nghĩa của từ
xuất phát ;
- Mang đặc trưng ngữ pháp mới (khả năng kết hợp thay đổi, chức năng
cú pháp thay đổi).
So với từ xuất phát, từ đã chuyển loại mang nghĩa mới, đặc trưng ngữ pháp
mới nhưng vẫn nằm trong hệ thống với từ xuất phát, nghĩa là chúng có mối
quan hệ với nhau chứ không hoàn toàn tách biệt như từ đồng âm. Chẳng hạn,
xét các ví dụ :
Từ ban đầu Từ đã đƣợc chuyển loại
Nó đi mua cuốc. Nó đang cuốc đất.
Ông nội tui đã ngoài tám mươi. Ông ơi, bà đang tìm ông đấy.
tui đã Thank cháu rể của vợ tôi. Thank cháu.
Ông ấy là thiếu tƣớng tình báo. Báo cáo thiếu tƣớng,..
39
Khác với tiếng Anh, tiếng Việt sở hữu một hệ thống các đại từ xưng hô đồ
sộ, phức tạp. Việc không chịu áp lực khái quát của ngữ pháp, cùng với tính
phân tiết cao của ngôn ngữ đã khiến cho hệ thống từ xưng hô chỉ quan hệ thân
tộc của tiếng Việt, phát triển mạnh mẽ, làm thành một hệ thống từ nhân xưng
phong phú và đa dạng hơn bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Theo thống kê của
Nguyễn Quang [16] trong phương ngữ Bắc của tiếng Việt riêng nhóm từ
xưng hô chỉ quan hệ thân tộc đã có 34 đại từ như vậy.
Một trong những đặc điểm quan trọng của hệ thống từ xưng hô trong tiếng
Việt là ở tiếng Việt hình thái xưng hô hoàn toàn không có phạm trù cách (chủ
cách, tân cách, sở hữu cách). Nhưng các hình thái tương đương thì nhiều hơn,
nhờ sự chi phối bởi các phạm trù xưng hô khác như ngôi, giống, số và phạm trù
lịch sự theo một hệ thống cấu trúc hoàn toàn khác, ở đây người Việt sử dụng
yếu tố phi đại từ bên cạnh các đại từ nhân xưng để tăng hiệu quả giao tiếp. Ví
dụ: ông, bà, cô, cậu... Đây chính là yếu tố văn hoá khác biệt nổi trội khi so sánh
với hệ thống xưng hô tiếng Anh. Để thấy được sự khác biệt này ta có thể quan
sát bảng so sánh sau:(ở đây ký hiệu – là không, còn + là có)
Hình thái xưng hô
Phạm trù xưng hô
Anh Việt
Ngôi + +
Giống + +
Số + +
Cách + -
Phạm trù lịch sự + +
Bảng so sánh một số phạm trù ngữ pháp của hệ thống đại từ xưng hô Việt -Anh
Khác với tiếng Anh vốn có phạm trù cách, trong tiếng Việt cách không phải
là một phạm trù ngữ pháp mà nó chỉ là một hiện tượng cú pháp mà các dạng
thức xưng hô Việt ngữ khu biệt với nhau chỉ qua vị trí câu. Ở tiếng Anh các
hình thái nhân xưng thuộc phạm trù cách được cấu thành với 3 thành tố. Có thể
40
thấy sự khác biệt trong phạm trù cách giữa tiếng Việt và tiếng Anh qua bảng
sau:
Chủ cách Tân cách Sở hữu cách
Đại từ nhân xƣng
I, you, she, he,
we, they
Me, you, her, him,
us, them
Tính từ sở hữu
My, your, her,
his, our, their
Đại từ sở hữu
Mine, yours,
hers,...
Bảng phân bổ phạm trù cách trong tiếng Anh
Ở tiếng Việt hình thái xưng hô hoàn toàn không có phạm trù cách (chủ cách,
tân cách, sở hữu cách). Nhưng các hình thái tương đương thì nhiều hơn, nhờ sự
chi phối bởi các phạm trù xưng hô khác như ngôi, giống, số và phạm trù lịch sự
theo một hệ thống cấu trúc hoàn toàn khác, ở đây người Việt sử dụng yếu tố phi
đại từ bên cạnh các đại từ nhân xưng để tăng hiệu quả giao tiếp. Ví dụ: ông, bà,
cô, cậu......

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top