hoangtrinh3

New Member
Tên sách: Trận chiến Điện Biên Phủ

Tác giả: Jules Roy

Dịch giả: Ngô Bình Lâm

Nhà xuất bản: Hà Nội

Năm xuất bản: 2004

Số hoá: ptlinh, chuongxedap











Cet ouvrage, publié dans le carde du Programme de participation à la publication, bénéficie du soutien du Centrel Culturel et de Coopératon de l’Ambassade de France en République Socialiste du Vietnam.





Cuốn sách này được xuất bản trong khuôn khổ Chuơng trình hợp tác xuất bản với sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác của Đại sứ quán Pháp tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.















Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp

La bataille de Dien Bien Phu - Jules Roy

© Edition Albin Michel, S.A-Paris 1989








 

Randkin

New Member
Ngày 21 tháng năm 1953



Hai lỗ mũi nhăn lại, Navarre xua đuổi những mùi vị của Sài Gòn. Vội vã đến để nắm lấy quyền sở hữu mảnh đất được tấn phong và gặp gỡ tướng Salan, người giữ tất cả chiếc chìa khóa của mảnh đất ấy, ông đi ra Hà Nội cùng với ngài Letourneau.



Ông phải nhanh chóng bắt tay vào việc, bởi lẽ một khi các thủ tục xã giao thường lệ vừa làm xong, toàn thể bộ máy chỉ huy tối cao ở Đông Dương thời (gian) gian qua, tiếp theo Salan, sẽ chui vào những khoang hạng nhất của máy bay và tàu thủy: viên tư lệnh cao cấp của xứ Bắc Kỳ, viên tham mưu trưởng liên quân ở Sài Gòn, viên tư lệnh không quân và tư lệnh ở Lào, ba viên chỉ huy trưởng khu vực trong số năm khu vực ở vùng đồng bằng đóng nắp các hòm con của họ lại. Bản thân ngài Letourneau cũng chuẩn bị rút lui, ông ta nói vậy, chẳng e sợ gì cho tương lai. Thái độ thẳng thắn, vẻ hiền từ giả tạo, những mưu mẹo khôn khéo của ông chẳng mang lại điều gì: ông không dám làm phiền lòng bất kỳ ai và luôn luôn thấy người ta nhiều mưu mẹo hơn mình.



Về sau, người ta sẽ trách cứ nền Đệ tứ Cộng hòa là vừa không sắp xếp chuyện hồi hương của những người có trách nhiệm từng đợt một. Thực tế, dưới con mắt nhân từ của viên cao ủy, tướng Salan vừa tìm cách thực hành, cùng với những ngày cuối cùng của kíp tướng De Lattre, chính sách đốt sạch, phá sạch dưới bước chân của người kế nhiệm De Lattre. Navarre không phản đối. Có đôi chút ngây thơ, ông tưởng rằng cái khoảng trống lớn ấy sẽ giúp đỡ ông.



Một sĩ quan cấp tướng duy nhất tự nguyện ở lại với ông: thiếu tướng Cogny, chỉ huy một sư đoàn cơ động ở Bắc Kỳ. Navarre vừa nắm được thông tin: Cogny vừa thành công trong tất cả kế hoạch của mình và đó là con người của vùng đồng bằng sông Hồng. Cogny đang gặp vận may. Navarre vừa được Letourneau đồng ý rằng sẽ đề nghị với chính phủ thăng cấp cho Cogny lên trung tướng.



Trên giải đất rộng lớn mênh mông với 700.000 kilômét vuông, dân số ba mươi triệu người này Navarre đoán rằng những cái bẫy sẽ không thiếu, và rằng những cái bẫy nguy hiểm nhất không phải là những cái mà quân đối phương sẽ giăng ra dưới chân ông. Nhưng thử hỏi có mảnh đất hành động nào lại kích KẾT hơn mảnh đất của Mourmelon(1) đây? Để cho 375.000 con người của phía quân xanh mà Navarre sắp sử dụng cùng với các đội quân ra đời từ các nước liên hiệp, đối mặt với 125.000 quân chính quy, 75.000 quân địa phương và 150.000 du kích của phía quân đỏ, bãi chiến trường nào đây với những đồng bằng cháy bỏng bị chia cắt thành những ruộng lúa, những khu rừng rậm có hổ và voi, những con sông lớn vươn dài ra biển cả, những rặng núi lô xô, nếp gấp lớn đá vôi bị gió mùa thổi qua, nằm kề bên cạnh Trung Quốc và đường chí tuyến Cancer, và 2.500 kilômét bờ biển vẽ nên một cách kỳ lạ đôi vai, chiếc gáy, hộp sọ và khuôn mặt nhìn nghiêng được vẽ biếm họa của con người Colombey cô đơn, lao đầu xuống biển, chiếc mũi và đôi cánh tay chĩa về phía Singapour!



Những suy ngẫm của Navarre chuyển theo chiều u ám: cỗ máy người ta vừa mới giao phó cho ông quyền chỉ huy không còn trơn tru nữa. Đạo quân viễn chinh chỉ nhúc nhích theo từng khối lớn, trong tiếng ầm ỹ của xe tăng và xe tải, không thể nào sống nếu không có sự vượt trội ghê gớm về phương tiện, đối mặt với một đối phương cơ động và có mặt khắp nơi một cách đáng sợ, họ nắm được tất cả thứ, phần lớn những đòn đánh của đạo quân viễn chinh đều rơi vào khoảng không. Quân sĩ thì mệt mỏi và cái hệ thống điều hành họ lại quá nặng nề. Cuộc chiến giết người một cách mù quáng ngay trên mảnh sân của một quán cà phê, cũng như trên đoạn đê nhỏ bên ruộng lúa; những ngôi làng nhìn bề ngoài hiền lành che giấu những pháo đài; một đứa trẻ dắt trâu ăn cỏ là một lính gác; những bà già miệng móm mém đi rải mìn; những người nông dân biến thành những kẻ bóp cổ các thân hào, nhân sĩ. Để chiếm giữ được hai mươi kilômét đường giao thông, nên phải có nhiều tiểu đoàn, nhiều cụm pháo binh và xe thiết giáp. Các đơn vị này, buổi tối đến, phải rút về các phòng tuyến, bỏ lại khoảng không gian cho đối phương. Nếu như người ta có thể nghĩ rằng, ở đôi nơi, có một phòng tuyến thì chẳng có nơi nào là hậu phương bởi lẽ tất cả thứ đều đe dọa và nguy hiểm. Ở nước Pháp, ai vừa ngờ tới điều này? Từ Trung Quốc ở kề bên, vũ khí và phương tiện đổ về các sư đoàn của tướng Giáp. Bảy năm trời vừa sử dụng và không mài sắc được cái công cụ lẽ ra phải phục vụ cho chiến thắng, và cuộc chiến tranh được tiến hành ở đó là cuộc chiến tranh rẻ tiền cộng với sự trợ giúp của Mỹ.



Rẻ tiền ư? Nó chi phí một hay hai tỷ mỗi ngày và mỗi con tàu nhổ neo từ Sài Gòn hay từ Hải Phòng bao giờ cũng có một khoang hầm chật ních những chiếc quan tài. Thông qua viên sĩ quan tùy tùng vốn cũng là một người bạn cũ và trở lại Đông Dương trong nhiệm kỳ thứ ba, Navarre được biết đầy rẫy những chuyện phản bội: không một ý kiến nào, không một văn bản cũng như một động thái nào lại không lập tức được thu lượm và bị rò rỉ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như những kẻ khốn cùng khổ ở trước mặt cũng có xe tăng và máy bay? Có thể là người ta tóm được họ, nhưng từ phía họ, họ có thể lao đầu vào húc bởi lẽ những kẻ khốn cùng khổ đó tin chắc rằng, sớm hay muộn, họ sẽ thắng cuộc và không mảy may sợ chết. Về phía chúng ta, tại sao người ta chiến đấu? Không còn một ai biết được điều đó nữa. De Lattre là người đầu tiên vừa tuyên bố: vì nền độc lập của Việt Nam. Nhưng mà tất cả người bất cần đến nền độc lập của Việt Nam, bắt đầu ngay từ bản thân nước Việt Nam, vốn vừa có độc lập hay là chẳng cần gì độc lập. Quân đội Việt Nam(2) lang thang đi tìm kiếm một niềm tin và chính phủ của nó vừa quyết định chẳng có quyền lực gì cũng như chẳng có sự trung thực nào. Với 50.000 đồng bạc, người ta được miễn làm nghĩa vụ quân sự. Các sĩ quan trẻ tuổi tốt nghề các trường quân sự trước hết lựa chọn ngành hậu cần và các cơ quan quản lý hành chính, ở đó người ta có thể ních dầy túi. Duy nhất những người ra sau cùng, hai tai cụp xuống, đi tới các đơn vị chiến đấu. Thử hỏi, họ có ham muốn gì để đi chết cho ngài Tâm, người đứng đầu nhà nước chính phủ(3), cho tướng Hinh, con trai của ngài Tâm, hay cho đức vua Bảo Đại, người vừa hiểu được là triều đại các quốc vương An Nam vừa buồn bã kết thúc cùng với ông ta và ông ta chẳng phải phục vụ bất kỳ ai ngoài bản thân ông ta? Từ thống chế De Lattre, còn lại một phòng tuyến các lô-cốt đổ bêtông, nhằm bẻ gãy các đợt sóng tấn công ở vùng ven đồng bằng, ở đó người ta gắn chặt những cái đít nặng và những đầu óc lạc hậu "trong lớp bêtông "cứt" nhất".

______________________________________

1. Moumlelon: Tên một trại lính ở thành phố Marne. nước Pháp - N.D.



2. Đây là quân đội của ngụy quyền Việt Nam. Trong cuốn sách này từ “quân đội Việt Nam” tác giả đều dùng để nói về quân đội ngụy quyền.



3. Đây nói chính phủ ngụy quyền lúc đó.
 

duong_thanhvu90

New Member
Navarre ngồi vững trong chiếc ghế bành của mình. Nào, nếu như bầu không khí bị ô nhiễm và cái công cụ xộc xệch thì nên phải có mưu kế. Một nụ cười kéo dài hiện lên trên nét mặt của vị tổng chỉ huy mới, khiến cho khuôn mặt hiền từ của ông có pha chút cay đắng.



Ngày 7 tháng 5 vừa rồi, ngài René Mayer, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vừa cho gọi Navarre tới phố Varenne. Navarre vừa đi kiểm tra ở nước Đức trở về. Được thống chế Juin - Navarre vốn là tham mưu trưởng của thống chế - báo trước cho biết, Navarre vừa trình bày những lý do từ chối của mình: ông chưa từng phục vụ ở Đông Dương và hoàn toàn không có khả năng. Khi mà ngài René Mayer, giữa khung cảnh của những đường thiếp vàng, những tấm thảm bằng dạ và những khu vườn lộng lẫy ở điện Matignon(1), đề nghị ông thay thế tướng Salan, Navarre vừa không kịp giải trình những lý lẽ để phản đối: vị chủ tịch Hội đồng bộ trường gạt bỏ tất cả bằng một cái phẩy tay nhẹ. Ngài René Mayer đánh giá là ông có khả năng nhìn tất cả việc bằng con mắt mới mẻ và nhanh chóng học hỏi được, ngài tỏ lời khen ngợi tính thận trọng, đầu óc thông minh lạnh lùng và sự khôn ngoan của Navarre. Hiển nhiên, đối với một chức vụ cao cấp như vậy, người ta vừa phải tìm kiếm khá lâu trong niên bạ để có được vị tướng bốn sao Henri Navarre, những ý kiến bác bỏ vừa không đứng vững được khi mà những tài năng thiếu đến mức như vậy và rằng không một ai hơn được. Tướng Valluy, người duy nhất nắm được vấn đề và là người chịu trách nhiệm về vụ oanh tạc Hải Phòng vào năm 1946 không phù hợp với điều mà ngài René Mayer đòi hỏi Navarre phải tìm ra: một lối thoát trong danh dự cốt để cho chính phủ có thể thương lượng và chấm đứt cuộc chiến tranh. Tăng viện ư? Không có vấn đề đó. Tướng Navarre sẽ không nhận được gì to lớn. Quân lực ư? Ngài René Mayer đọc cho ông nghe bài báo mà ngài Edouard Daladier viết trên một số báo buổi chiều: "Quốc hội sẽ phản đối một chuyện làm ngớ ngẩn như vậy ".



Khi rời khỏi điện Matignon, tướng Navarre nghĩ về ngài René Mayer: "Ông ta điên...". Trở về Fontainebleau, ông báo cáo với thống chế Juin:



- Ngài có nhiều cách để giữ tui lại, ông bổ sung thêm như vậy ít nhất tui phải ở cùng với ngài trong hai năm ở Trung Âu.



- Nghĩa vụ của anh là phải nhận lời, thống chế đáp lại, trước sự sửng sốt của Navarre. cần có một ai đó chịu hi sinh.



Để động viên ông, thống chế Juin đưa cho ông xem một bản báo cáo của mình sau một chuyến khảo sát mới đây. Trong bản báo cáo này, thống chế tỏ ra lạc quan: để giải quyết bài toán, chỉ cần vài tiểu đoàn và vài tháng trời, nhưng nên phải đề phòng một cuộc tấn công tổng lực ở vùng đồng bằng. Tóm lại, người ta nghĩ rằng quân Việt không có đủ phương tiện để tiến hành một cuộc chiến tranh cơ động và rằng họ có thể gục ngã nếu người ta tràn lên xô đẩy họ. Chẳng phải Navarre vừa từng là kỵ binh hay sao?



Ông nhận lời.



Navarre là ai? Cái tên phấp phới như một lá cờ tung bay trước gió kể từ năm 1915 khi mà hai anh em có tên Navarre trở nên nổi tiếng trong đội ngũ bay công khu trục. Tuy nhiên, không có mối quan hệ họ hàng nào giữa các bay công và vị tướng, lúc này năm mươi nhăm tuổi, xuất thân từ một dòng họ nhiều đời của những công chứng viên, luật sư và quan tòa vùng Normandie(2).



Sinh vào một ngày 31 tháng bảy, như vậy đó là một con sư tử. "Bởi vì đó là ý chí của tôi", là câu châm ngôn mà ông hay sử dụng. Về thể chất cũng như tinh thần, đó là một con báo. Chàng kỵ sĩ này không nhỏ bé nhưng mà nửa thân trên mảnh dẻ, hơi ngả ra phía sau, do vì luôn luôn ngồi trên lưng ngựa cho nên dáng điệu của ông không uyển chuyển và ông có vẻ được thoải mái khi đứng trước các tấm bản đồ và các bánh xích của xe tăng hơn là trong các cuộc đua ngựa. Ông không phải là người vung kiếm. Ở ông tất cả chuyện diễn ra trong đầu óc; gần như trong toàn bộ sự nghiệp, ông hoạt động trong các đơn vị trinh sát và cơ quan tham mưu.



Vừa thân thiện vừa xa cách, độ lượng và lạnh lùng, ông có được sự tự chủ hiếm có và một tài khéo léo lớn để chinh phục người khác. Hình như ông giữ kín tất cả chuyện kể cả khi ông ngờ vực. Quyết đoán, dút khoát, ông có thể giữ im lặng lắng nghe những lập luận dài dòng mà không bao giờ để mình bị lôi cuốn vào đó. Tự tin, nói nhiều, nếu như chuyện đó là cần thiết. Cứng rắn, nhanh nhẹn, cái nhìn của ông như một tia chớp chiếu thẳng vào những người đối thoại với mình rồi quay đi, khác hẳn với giọng nói có thể là nồng nhiệt, khoan dung hay gay gắt. ông làm cho người ta có cảm tưởng là ông nắm sâu các vấn đề vừa được nghiên cứu kỹ lưỡng để cho giải pháp mà ông lựa chọn không vấp phải những sự phản đối.



Khuôn mặt ông sắc sảo dưới vầng trán nhẵn bóng và mái tóc mầu xám xẹp xuống. Một trong những nét tiểu sử cho thấy rõ là ông không biết âm nhạc và hội họa, và rằng ông yêu lũ mèo. Với nhiệt tình phục vụ ông, người ta vừa so sánh ông, do đôi mắt mầu xám và đôi lông mày rậm, với thống chế De Saxe(3), một trong những vị tướng lĩnh vĩ đại nhất một thời (gian) đã qua. cần tránh đi quá xa trong chuyện so sánh, khi mà người ta đề cập tới LỊCH SỬ và rằng kết cục của những tấm thảm kịch vừa được biết rõ.

______________________________________

1. Matignon: Tòa nhà xây năm 1721 trên phố Verenne ở Paris. Là trụ sở của Hội đồng Bộ trưởng nước Pháp.



2. Normandie: Vùng Tây Bắc nước Pháp - Nơi quân đồng minh đổ bộ tấn công quân Đức trong đại chiến Thế giới lần II, 1944 – N.D.



3. Maréchal de Saxe: Viên tướng nước Pháp (1696 - 1750) là con vua Auguste II. Có trận tháng ở Fontenoy. - N.D.
 
Ngày hôm đó, trong Tòa nhà nước Pháp, trụ sở của viên cao ủy ở Hà Nội, ngài Letourneau vừa mời các viên tướng ở Bắc Kỳ tới ăn trưa cùng với Navarre. Trong phòng khách, Salan chỉ trao đổi những câu chuyện xã giao tầm phào. Là con hổ hoàng gia có hàm răng sắc nhọn và khuôn mặt nở nang với nhiều nét nhăn, ông đưa đôi mắt buồn bã, lơ đãng nhìn con người sắp kế nhiệm mình. "Nho nhã, thanh mảnh, lịch lãm luôn luôn cảnh giác", ông thầm đánh giá con người ấy và giữ im lặng. Gonzalez de Linarès. Chỉ huy trưởng các lực lượng ở Bắc Kỳ, mà người ta gọi thân mật (an ninh) là "Chú Li", có những cử chỉ thoải mái hơn, có người tình là một cô gái lai Hoa xinh đẹp, ông nổi tiếng là một người nói thẳng. Bạn đồng khóa với Navarre, ông ngồi trên tay ghế của Navarre và dùng giọng nói thân mật:



- Này chú nhỏ Henri, chú đến làm cái quái gì ở cái "đống phân" này vậy? Tớ thì tớ ra đi.



- Chuyện anh ra đi đúng là chuyện rầy rà đối với tôi, Navarre đáp lại.



- Ai sẽ thay anh?



- tui vừa yêu cầu Cogny.



- Đừng có chọn tay ấy, Linarès nói, khẽ chạm vào khuỷu tay Navarre. Đó là một tay đáng ghét.



- Anh có giới thiệu cho tui ai khác không? - Quả thật, chẳng có ai, và dưới những chiếc quạt trần đang quay, ngài Letourneau đi quanh các viên tướng như một con gấu xù lông.



- Thưa tướng quân, ngài nghĩ thế nào? - Navarre hỏi Salan.



Đôi mắt của Salan long lanh tia chớp:



- Cogny có những phẩm chất tốt.



Ngài Letourneau chuyển cho Navarre một tờ giấy người ta vừa đưa cho ông. Navarre KẾT mạo hiểm. Hình như, thậm chí, ý kiến bác bỏ của những người ngang hàng với mình lại khuyến khích ông giữ vững ý định.



- Đây là bức điện đề bạt Cogny lên trung tướng, Navarre nói. Lát nữa, tui sẽ chỉ định ông ấy là chỉ huy trưởng của xứ Bắc Kỳ.



Vả lại lúc này Cogny vừa xuất hiện.



Điều nổi bật trước tiên ở Cogny đó là thân hình: cao 1m87 và tầm vóc vạm vỡ. Hoàn toàn không hề lợi dụng ưu thế đó, hình như lúc nào ông cũng muốn nhún mình. Giọng nói của ông nhã nhặn, đôi khi vuốt ve. Ông là người dễ tiếp cận, đôi mắt mầu xám dễ dàng xúc động, bàn tay ông rộng lớn mở. Trước mặt hàng quân, ông không nên phải áp đặt: chỉ cần ông xuất hiện với đôi vai nở nang của một cầu thủ bóng bầu dục và cách nói thẳng thắn của vị nam tước trong vương quốc đích thực ở Jérusalem. Người ta quý mến đức tính giản dị, bộ trang phục dã chiến mà không lúc nào ông rời bỏ, chiếc thắt lưng nhà binh bằng da sần, dưới bộ ngực nở nang không có huân huy chương của ông.



Người ta đoán ra được là khi ở giữa bộ máy chiến tranh, ông như đang ở giữa nhà riêng của mình, với vẻ: chuyên dáng và lịch lãm của một nhà qúy tộc đi trên mảnh đất thuộc quyền sở hữu của mình. Cái anh chàng ba đời nông dân ấy, bị De Lattre chinh phục, tỏ ý rằng De Lattre vẫn là ông thầy và hình mẫu, cái bóng vĩ đại có đủ tất cả khả năng, thậm chí xuất hiện là trừng phạt, áp đặt vầng hào quang cho các sĩ quan chỉ huy, áp đặt tài năng cho các binh sĩ. Lòng trung thành luyến tiếc - tưởng nhớ tới ông chủ cũ ấy - cuối cùng làm cho người ta cảm động. Bị cấp trên khó chịu vì nổi tiếng trong chuyện tranh cãi các mệnh lệnh, được cấp dưới yêu mến, Cogny tạo ra được một khung cảnh huy hoàng nào đó trong các nghi lễ xã giao và kể cả trong ngôi nhà quân sự của mình, ở đó ông tiếp đón các khách khứa bình thường nhất với những cung cách đặc biệt. Được gọi một cách vô lễ là "Coco tiếng còi" do vì cái sở KẾT của ông sử dụng quá mức các đội mô tô hộ tống, Cogny bị buộc tội là muốn tạo dựng một mảnh đất nam tước trong vương quốc Đông Dương, áp đặt ở đó các quan điểm và các nhân viên của mình, tổ chức ở đó những cơ quan mật (an ninh) vụ.



Là con người hùng mạnh với ngoại hình đáng sợ, Cogny là con bò tót do bởi vóc dáng của thân hình và sức mạnh mà nó chứa đựng, sức đề kháng mà khối thân hình đó trương ra trước đối thủ. sức nặng mà nó áp dụng trước các chướng ngại, những cơn giận dữ hình thành trong khối thân hình đó và bùng nổ với sức mạnh của những cơn giông tố xứ Bắc Kỳ. Trong bộ áo giáp tựa như che phủ cho ông từ đầu đến chân, ấy vậy mà lại có một khiếm khuyết thuộc lĩnh vực con tim: chỉ một tiếng nói có thể làm cho Cogny bị tổn thương sâu sắc. Lúc đó ông không hề tha thứ và luôn luôn cảm giác mũi kiếm vừa chạm vào người mình. Dễ dàng bị chinh phục và điều khiển, ông sẽ cúi đầu, lao thẳng vào cái người mà ông đánh giá là chịu trách nhiệm về vết thương của mình, và tìm cách chà đạp kẻ đó dưới gót chân.



Mặc quần sóc, trông ông có vẻ càng cao to. Do mặc cảm vì thân hình to lớn của mình, đôi khi ông chỉ lùi lại để lắng nghe. Navarre kéo ông ra một góc và báo cho ông biết chuyện bổ nhiệm ông thay thế De Linarès với một ngôi sao thứ ba(1) trên quân hàm. Khuôn mặt Cogny rạng rỡ và một nỗi xúc động đột ngột đẩy ông về phía Navarre.



- Ngài sẽ không phải hối tiếc về chuyện đó, ông nói.



Cũng buổi tối hôm đó, khi bữa ăn kết thúc, vào lúc người ta phục vụ nước ngọt, Salan nói với Navarre.



- Thưa tướng quân, ngài phải đề phòng, bởi lẽ Việt Minh đang tổ chức những đơn vị lớn và theo một cơ cấu của châu Âu.



- Trong trường hợp đó, Việt Minh sẽ toi mạng, Navarre nói.



________________________________________

1. Cấp hàm trong quân đội Pháp: - Thiếu tướng: hai ngôi sao - Trung tướng: ba ngôi sao - Thượng tướng: bốn ngôi sao. - N.D.
 
Ngày 22 tháng năm 1953





Do vì vẫn chưa có được một cuộc trò chuyện nghiêm túc với Salan, Navarre yêu cầu sĩ quan tùy tùng của mình đề nghị với Salan một chương trình đi khảo sát chiến trường xứ Bắc Kỳ. Trước tiên, ông ấy muốn tới thăm pháo đài Nà Sản, chuyện duy trì cứ điểm này đang làm cho bộ chỉ huy và một vài thành viên trong chính phủ bận tâm.



Trong chiến dịch trước đây, tướng Giáp, vốn vừa nắm giữ được phần lớn vùng phía Bắc xứ Bắc Kỳ, với ba mươi tiểu đoàn vừa chiếm được toàn bộ vùng không gian nằm giữa con sông Hồng và con sông Đà. Trước cuộc tấn công mới của ông ta triển khai về hướng xứ Thái, thử hỏi Salan có thể áp dụng chiến thuật gì đây? Rút các đội quân đồn trú của ông ta ra khỏi xứ Thái để chuyển xuống vùng đồng bằng chăng? Như vậy là sớm hay muộn sẽ mở toang con đường đi sang Lào. Kể từ khi người ta rút bỏ Lạng Sơn và Cao Bằng, tất cả việc kiểm soát sự thông thương giữa khu vực mạnh của đối phương và Trung Quốc vừa không còn nữa. Một cuộc rút lui mới xuống đồng bằng có nghĩa là thú nhận sự yếu kém. Salan muốn tranh thủ thời (gian) gian và khiến cho đối phương bị bất ngờ khi đặt họ đứng trước một con nhím giận giữ khác thường. Để chặn ngang con đường phía Tây và bảo vệ Lai Châu, Salan vừa ném từ trên trời xuống một cứ điểm vững chắc ở Nà Sản.



Thắng lợi của một kế hoạch mà tính táo bạo của nó vừa làm cho tui phải run người lên, lần đầu tiên khi tui tới thăm cái pháo đài mà Gilles vừa mới nhận quyền chỉ huy, cái pháo đài được xây dựng phụ thuộc vào chuyện tướng Giáp thiếu thốn các phương tiện: hay là ông ta không thể kéo pháo binh tới sử dụng ở đó hay là chuyện duy trì ba sư đoàn và các vũ khí nặng ở một khoảng cách rất xa các căn cứ là ngoài khả năng lôgic của ông ta. Tướng Giáp cũng có thể tránh vật chướng ngại, nhưng nếu quay về các căn cứ của ông ta ở Bắc Kỳ để cho mùa mưa qua đi, ông ta có nguy cơ nhìn thấy con nhím ấy nở bung ra, cắt đứt con đường và quấy rối các tuyến giao thông. Theo lôgic tướng Giáp buộc phải tiến đến vật chướng ngại và nhổ bỏ nó đi. Salan tin rằng cuộc tấn công của đối phương sẽ vấp ở đó và do vì không đủ khả năng đảm bảo nhu cầu của năm mươi nghìn chiến binh và dân công để đứng chân tại chỗ, tướng Giáp sẽ rút lui, bị tổn hại mà không thể nuốt trôi một miếng xương quá lớn đối với ông ta. Đòn đánh táo bạo của Salan, tuy nhiên, mang theo một nguy cơ: tướng Giáp có thể vừa có bước tiến trong chuyện chỉ huy các trận đánh; nếu như coi thường các tổn thất, tướng Giáp quyết định tấn công tổng lực thì tham vọng đánh bại quân Việt có thể quay đầu chống lại Salan, biến thành một thất bại thảm hại.



Hai viên tướng đối thủ vừa từng gặp nhau trong những cuộc điều đình được móc nối, sáu năm về trước, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào thời (gian) kỳ mà Leclerc vừa đặt chính phủ Pháp đứng trước ngã ba đường hay là huy động quân số để đánh bại cuộc nổi dậy hay là thỏa hiệp với nó. Từ đó được chấp nhận rằng Salan, mà người ta gọi là "anh Ba Tầu”, vừa có kinh nghiệm về đối thủ trực tiếp và luôn luôn phá vỡ những ý định của họ. Tính cách bí ẩn, một nụ cười thoáng qua đôi khi xuất hiện trên khuôn mặt dầy dạn phong trần của ông, đôi mắt xám rất linh hoạt, trên ngực mang tấm biển bề thế của những cuống huân huy chương mầu sắc rực rỡ chứng minh ông là viên sĩ quan được tặng thưởng nhiều nhất trong quân đội Pháp, gắn liền với vẻ huy hoàng của vị tổng chỉ huy; Salan nổi tiếng về chuyện hút thuốc phiện để suy nghĩ tìm ra các sáng kiến. Bị ngăn cách với tướng Giáp bởi cả một vùng rộng lớn lớn những khu vực không thể nào vào sâu được cùng với những bí mật, Salan tựa như đang chơi ván bài pôkơ với ông Giáp. Vào thời (gian) kỳ này, khi những bức điện từ Nà Sản đánh tới, người ta nhìn thấy Salan đưa ngón tay khẽ chạm vào một con voi nhỏ bằng ngà, ông ta thường mang theo trong hành trang và đặt trên bàn làm việc.



Nét độc đáo của tình hình chiến sự vừa thu hút cả một đám đông những phóng viên quốc tế tên tuổi. Lần đầu tiên trong cuộc đối chọi, hai quân đội có nguy cơ đụng đầu dữ dội trên bãi chiến trường, ở cách xa các thành phố và khối người đông đúc giữa các đồng lúa. Người ta quay lại kiểu chiến tranh cổ điển, quay lại với Jules César(1), với Scipion người châu Phi(2) hay với Jugurtha(3), người ta nghĩ tới trận chiến ở Zama, ở đó Annibal(4) khiêu khích quân La Mã. Tướng Giáp vừa gửi cho bộ đội của ông ta một bản tuyên bố, trong đó ông ta nói với họ rằng, số phận cuộc chiến tranh tùy thuộc vào lòng dũng cảm của họ, bởi vì, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, ông ta vừa quyết định, quả vậy, như Salan vừa dự kiến, tấn công Nà Sản.



Qua hai đợt ông ta bị tổn thất ở đó, có khoảng gần một nghìn tử sĩ trên hàng thép rào gai và nhón năm đầu ngón chân để rút lui, bằng lòng với chuyện kìm chân đội quân đồn trú bằng một vài tiểu đoàn. Salan thắng lợi nhưng chiến thắng có tính chiến thuật đó không có mảy may ý nghĩa quyết định. Một bộ phận của không quân phải dùng để tiếp tế và chi viện cho trận địa, nếu như người ta duy trì lâu hơn nữa, trận địa đó sẽ phơi mình trước những nguy hiểm của một đợt tấn công mới.



Chính vì Nà Sản vẫn là điểm nhạy cảm của khu vực chiến trường cho nên Navarre cảm giác phải nhanh chóng tới thăm nơi đó. Trước ngày lên đường sang Đông Dương, ngờ vực rằng mình sắp tiếp nhận một tài sản thừa kế vừa nhiễm độc, Navarre vừa nói với ngài De Chevigné, Bộ trưởng Chiến tranh rằng: "Việc rút khỏi Nà Sản sẽ là hành động chỉ huy đầu tiên của tôi, và tui sẽ không lặp lại những trận đánh kiểu như vậy... ". Ngoài ra, Cogny vừa mới khẳng định với ông rằng Nà Sản hiện không còn giúp ích gì nữa. Để đánh giá tất cả chuyện bằng một cái nhìn thoải mái hơn, Navarre, thậm chí, không muốn có một thành viên nào của bộ tham mưu xứ Bắc Kỳ đi theo. Với viên bay công hỏi ông muốn bay ở độ cao nào, ông trả lời: "Ở một độ cao mà tui nhìn thấy được một cái gì đó". Và ông ngồi trong khoang lái của bay hành đoàn để quan sát được tốt hơn.



Trong vùng lân cận Mộc Châu, ở đó các trận địa pháo cao xạ của quân Việt được bố trí, viên bay công không dám hạ độ cao. Một loạt đạn đột nhiên vây xung quanh chiếc Dakota, một loạt đạn khác chạm vào máy bay nhưng không gây thiệt hại gì nghiêm trọng. Máy bay tới Nà Sản và hạ cánh ở đó, hai cánh lỗ chỗ vết đạn.



Navarre được tiếp đón bởi một con người nét mặt buồn bã, khô khan, ngờ vực, với bề ngoài bí ẩn: đại tá Berteil. Berleil vừa nhận được tất cả văn bằng và các thánh lễ trong quân đội; ông ta vừa sử dụng thứ ngôn ngữ chậm rãi và trừu tượng của những chức vụ cao cấp mà ông đang chuẩn bị bước tới. Vẻ bề ngoài không giúp ích cho ông. Đây không phải là con người của chiến trận mà là con người của cơ quan tham mưu. Ông ta suy ngẫm, xây dựng các lý thuyết, có vẻ như nắm giữ được những bí mật (an ninh) ghê gớm, có kinh nghiệm về những tính toán của cấp trên và có một niềm tin mà không một chuyện hài hước nào có thể làm cho suy giảm. Chẳng hạn, ông tin rằng Nà Sản vừa có ích. Có lẽ bởi vì ông vừa chỉ huy nó kể từ khi tướng Gilles, vốn là linh hồn của Nà Sản, ra đi chăng? Có lẽ bởi vì ông không muốn nghĩ rằng mình chỉ có thể là người đóng vai phụ chăng?



Ông ta dành cho Navarre sự quan tâm đặc biệt và đưa Navarre đi thăm trận địa với một thái độ tôn kính cứng nhắc. Theo bản năng, Navarre cảm giác ở ông ta một đồng minh. Ông ta không để lộ liễu chuyện này tương tự như Cogny, ở Cogny người la cảm giác có quá nhiều cá tính và sự nóng nảy. Vả lại, đối với Berteil, Cogny không phải là một nhà tiên tri. Navarre sẽ nhớ tới Berteil khi cần thiết và sau này vừa sử dụng Berteil làm cấp phó cho mình, phụ trách về tác chiến, phối hợp hành động của phòng Nhì và phòng Ba. Thực tế, Berteil nhanh chóng trở thành viên sĩ quan đáng sợ nhất trong đám người vây quanh vị tổng chỉ huy mới. Mặc dù quyết tâm cao độ chấm dứt kế hoạch Nà Sản đến như vậy mà Navarre cũng bị ấn tượng bởi quang cảnh khu trận địa hầm hào, tại đó các tiểu đoàn của tướng Giáp vừa kéo tới hít bụi, cũng như bởi sức mạnh, sức khỏe và sự thanh thản mà người ta cảm nhận được ở đó.

_________________________________________

1. Jules César: Một tướng giỏi người La Mã (101 - 44 trước C.N). Thắng lợi trong cuộc chinh phục những người Gaulois, và nhiều trận thắng khác. Trở về làm vua ở La Mã.



2. Scipion I'Africain: tướng giỏi của gia đình Cornélia (235 - 183 trước C.N) - Nhiều trận thắng ở Tây Ban Nha, thắng tướng Annibal của thành phố Carthage (202 trước C.N).



3. Jugurtha (vua xứ Numidie); sinh năm 154 trước C.N, chống lại người La Mã. Bị Marius đánh bại.



4. Anninbal: tướng giỏi của thành phố Carthage (247 - 183). Đã đánh chiếm Tây Ban Nha, miền Nam nước Pháp, vượt qua dãy núi Alpes - Trở về Châu Phi, bị L'Apricain đánh bại.
 
Ngày 25 tháng năm 1953





Những nhân vật của tấm thảm kịch, chậm chạp bước tới chỗ ngồi của mình phía sau tấm rèm che kín. Đã bắt đầu lan truyền những tin đồn về Navarre, con người mà người ta quan sát bằng một con mắt phê phán và hơi lo ngại. Người ta nhắc lại chuyện ông vừa tỏ ý ngạc nhiên rằng vùng đồng bằng vốn được đạo quân viễn chinh chiếm đóng vững chắc đến như vậy mà vẫn bị quân Việt quấy rối và rằng khi trao tặng các tấm huân chương, ông vừa bất cẩn gắn những huân huy chương ấy lên bộ ngực phải của những con người được đón rước long trọng. Ông vừa mở đầu một cuộc họp các sĩ quan với câu nói sau đây: "Thưa các vị, để thắng được cuộc chiến tranh này...", sau đó nhìn thấy có ai đó mỉm cười, ông vừa ngừng lời và truy hỏi lý do, cái lý do mà người ta vội vã trí trá. "Thắng được cuộc chiến tranh này", ở đây không một ai nghĩ như vậy và đó cũng không phải là chỉ thị mà Navarre nhận được từ Paris. Rút ra khỏi cuộc chiến tranh đó với ít tổn hại nhất, hình như bên trong đầu óc tất cả người, đó là công thức KẾT hợp nhất để áp dụng trong tình thế hiện tại.



Kể từ khi mối nguy của một thất bại đè nặng, các công ty lớn khai thác hầm mỏ, các nhà máy xi măng, nhà máy sợi, vải, các đồn điền cao su vừa chuyển vốn và tài sản dự trữ tới các khu vực khác trên thế giới; tài sản mà nước Pháp còn sở hữu được tại các nước liên hiệp không bằng khoản chi phí cho một năm chiến tranh: Sáu trăm tỉ và một trăm sĩ quan trẻ. Cứ trong ba năm người ta phải hi sinh cả một khóa sĩ quan trường đào tạo Saint Cyr để bảo vệ thế giới phương Tây. Cuộc chiến tranh Đông Dương, kể từ khi bắt đầu vừa giết chết 3 viên tướng, 8 đại tá, 18 trung tá, 69 thiếu tá, 341 đại úy, 1.140 trung và thiếu úy, 2.683 hạ sĩ quan và 6.008 binh sĩ Pháp; 12.019 lê dương và người châu Phi, 14.093 lính bản địa. Những con số này không nằm trong số mất tích: hơn 20.000, cũng như những thương binh và bệnh binh phải hồi hương: hơn 100.000. Nếu như nước Mỹ cung cấp những đồng đô la, chính là bằng cách đó, nước Mỹ vừa mua dòng máu mà nước Pháp đổ ra thay thế cho Mỹ.



Trong cuộc thập tự chinh nào đây? Người đầu tiên, De Lattre vừa tung ra cái từ ngữ đó. Nước Mỹ vì sự sống còn của nó, đấu tranh chống lại nước Nga, có tất cả lợi ích để tin vào điều đó Nhưng mà, nếu như điều đó là có thực, tại làm sao trong nước chúng ta lại không có một Pierre l'Ermite(1) mới đứng lên và hô hào trên các bãi công cộng kêu gọi tất cả người vũ trang? Tại sao lại có ít những thanh niên đăng ký đi sang Viễn Đông như vậy, và tại sao, thay vì cống hiến những đứa con trai của mình, dân tộc lại vừa lựa chọn chuyện trả tiền cho những kẻ đánh thuê? Ngược lại những người này bước xuống đầy những con tàu, đi bảo vệ một lý tưởng mà bản thân nước pháp cũng không tin tưởng. Những người Pháp duy nhất dám dũng cảm gánh vác lấy công chuyện đó, vừa làm chuyện vì nghề nghề hay vì sở thích. Số lượng nhỏ nhoi của họ làm cho họ phấn khích, hơi ấm của dân tộc quất mạnh vào nhiệt tình của họ, các trung đoàn quân dù trở thành những chủng viện của lòng dũng cảm, của sự quên mình, của sự hi sinh hoàn toàn tự nguyện. "Bạn nên nhớ rằng cái đang chờ đợi bạn đó là cái chết", Bigeard nhắc lại câu nói này với các binh sĩ của mình khi anh xây dựng giáo lý về niềm tin của mình. Ở đấy, người ta không chiến đấu do vì vòng quay tác chiến chỉ định là Đông Dương và người ta coi khinh chuyện khi trở về mẫu quốc có thể mua được một chiếc xe ô tô: người ta chiến đấu vì nghĩa vụ quân sự và do vì người ta không chấp nhận chuyện mình bị đánh bại, trên chiến trường cũng như trong cuộc sống. Đối với những con người trong sáng này, vốn vừa chọn lấy điều tốt nhất của cuộc sống ở trong chiến trận và biết rằng cái điều tốt nhất ấy dẫn tới cái chết. Thế còn Bảo Đại thì sao? Bảo Đại là công chuyện của quốc gia. Không phải là công chuyện của họ. ở trong các trung đoàn quân dù hay là dẫn đầu các đơn vị lê dương cũng những con người ấy, vốn sống cách xa những người mà họ yêu quý từ nhiều năm nay, và mang niềm tin cháy bỏng trong lòng vừa tự chất vấn mình. Sau khi độc lập được trao trả cho Việt Nam, họ sẽ ra đi, nhưng mà ngay sau khi một vùng đất được giải phóng, bám gót theo họ, những nhân viên thu thuế kéo tới, thu thập những loại thuế lạc hậu và triều đại các quan lại tiếp tục đè nặng lên dân chúng. Lúc đó, làm thế nào đấu tranh với niềm hy vọng mà chế độ cộng sản huơ lên trước mặt?



Cùng một ý thức về nghĩa vụ đó vừa kích động không quân và hải quân. Những sĩ quan không buộc phải phục vụ ở Đông Dương tình nguyện ra đi vì tình bạn. Họ không thể nào tiếp tục uống rượu trên quảng trường Elysés(2) trong khi các bạn bè đang ngã xuống. Một lớp người ưu tú mà người ta không yêu cầu đạt tới một mục tiêu đáng phấn khởi vừa chuộc lại lỗi lầm về thái độ lãnh đạm của một dân tộc vốn chẳng hiểu gì về cuộc chiến tranh này và nghi ngờ rằng các chính phủ của mình bảo vệ những lợi ích mờ ám ở đó.



Chuyện gì đang diễn ra ở Đông Dương, quả thật, có ai biết đến chăng và nếu như biết, có ai dám nói lên chăng? Chưa một tờ báo nào dám công bố rằng tướng Salan vừa cắm vào trong mỗi căn cứ và gần như trong mỗi đồn bốt một nhóm vô lại là những nhân viên mật (an ninh) thám, chúng tra tấn và hành động tùy thích, chúng chỉ chịu sự chỉ huy của những cơ quan trực thuộc một hội đồng, hội đồng này lại giả bộ không biết đến chúng. Không một linh mục nào dám đứng trên bục giảng, bác bỏ cuộc chiến tranh mà người ta tiến hành đối với một đất nước bị giai cấp phong kiến và những kẻ xâm lược áp bức từ nhiều thế kỷ nay và tuyên bố rằng nghĩa vụ đích thực của nước Pháp là chiếm được cái đế chế rộng lớn lớn nhất trên thế giới: trái tim của tất cả người. Ấy vậy mà, ngoại trừ những người thấy có lợi ích khi cộng tác với chúng ta, dù cho sau đó lại phản bội, hay là khiếp sợ thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, còn thì đàn ông và đàn bà ở Việt Nam không đứng về phía chúng ta. Trong chuyến du hành thu thập thông tin, ngài Aldai Stevenson vừa lấy làm ngạc nhiên về việc, trái ngược với những người Triều Tiên, không một ai mỉm cười khi ông ta đi qua và ông vừa tự hỏi, làm thế nào những người lính đánh thuê của đạo quân viễn chinh lại có thể đòi hỏi ý nghĩa trong một cuộc chiến tranh chống lại Việt Minh mà lại là vì nước Việt Nam. Một người Mỹ khác, David Schoenbrun, nhà báo nổi tiếng không có dấu hiệu gì là bài Pháp, vừa tố cáo tội lỗi cố hữu của thời (gian) đại thuộc địa: những cái quyền bất khả xâm phạm ấy mà nước Pháp vốn quên một những bài học của cuộc CÁCH MẠNG(3) của mình, vừa không tôn trọng và như vậy vi phạm đến nền tự do của nước Việt Nam, trong khi nước Pháp chỉ có ở đó những lợi ích vật chất. Việc che giấu để duy trì những căn cứ chiến lược của cuộc thập tự chinh tạo ra một trạng thái mập mờ rất lớn. Những người ưu tú không hiểu được tại sao giới trí thức lại không ủng hộ họ và cho rằng mình bị phản bội. Mặc dầu không biết đến điều đó, bây giờ không phải là họ đi theo César mà là đi theo Ponce Pilate(4).



Navarre biết tất cả những vấn đề đó nhưng phải nói rằng, những vấn đề đó còn xa mới làm cho ông phải phiền muộn, chuyện tiếp xúc với thực tế vừa hướng ông tới một thái độ lạc quan nào đó. Khi trở về Hà Nội, ông bổ sung đầy đủ kíp của mình và phát hiện ra một viên chánh văn phòng, đại tá Revol, trước đây là cấp phó cho tướng Gilles, ở Nà Sản. Đây là một con người điềm tĩnh, có chiếc mũi dài, mảng đầu hói và đôi mắt hiền từ, tạo ra vẻ bề ngoài tốt bụng nhưng giả tạo của một con chó săn tài giỏi. Sinh ra với thiên hướng về châu Phi, ông ta không thấy thoải mái ở Đông Dương. Ngược lại tư tưởng không thủ cựu tinh tế và danh hiệu của ông là nguyên giáo sư về khoa sử dụng vũ khí trong trường Saint Cyr làm cho Navarre hài lòng, Navarre vốn đang tìm cách gắn bó với những con người độc đáo và thậm chí có những ý tưởng trái ngược với mình.



Tại sao Salan lại không đưa ra cho người kế nhiệm mình bản chỉ thị của chính phủ ngày 24 tháng 4 năm 1953 trong đó căn dặn ông nên ưu tiên cho chuyện mất đất hơn là những trận đánh uy hiếp sự an toàn của đạo quân viễn chinh? Nếu như đó là tài liệu quan trọng, thì vị tổng chỉ huy phải luôn luôn ghi nhớ trong đầu và nếu như tài liệu đó tuy không chỉ dẫn cụ thể chuyện tác chiến nhưng lại vừa nêu rất rõ những mối nguy hiểm không được phạm phải dù cho vì bất cứ lý do gì. Phải chăng Salan không dám thú nhận là mình vừa bị bãi nhiệm hay là ông ta tưởng rằng Navarre vừa được chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, người bổ nhiệm ông ta vào chức vụ mới, cho biết tinh thần của bản chỉ thị đó. Ngài René Mayer vừa có cử chỉ ngần ngại vô bổ khi né tránh không đưa cho tướng Navarre đọc bản đánh giá của chính phủ về một số trận đánh mà người tiền nhiệm Navarre tiến hành trên vùng thượng du. Lẽ ra ông ta vừa có thể giúp cho Navarre nhìn nhận dưới một khung cảnh khác cái trận địa hầm hào Nà Sản vốn vừa mang nhiều dáng dấp của Điện Biên Phủ. Liệu Salan, trong những cuộc trao đổi ngắn ngủi giữa hai người, có thổ lộ cho Navarre biết những nguy cơ tồn tại khi lặp lại kinh nghiệm của Nà Sản, hay cho rằng Navarre có khả năng tự phân biệt được sự khôn ngoan nằm ở chỗ nào cho nên Salan vừa không nhắc nhở Navarre nên phản đối chiến lược "những con nhím"? Liệu ông ta có nhấn mạnh đến khả năng KẾT ứng của tướng Giáp khi ông ta biết rằng Navarre có ý định bảo vệ hướng tây bắc bằng chuyện bổ sung Điện Biên Phủ thêm vào hai căn cứ Lai Châu và Nà Sản trong một hệ thống mà người ta vừa mệnh danh là quần đảo Salan, bởi lẽ từ một năm trời nay, Salan vừa mơ ước đánh chiếm Điện Biên Phủ? Đối với Salan quả là một chuyện thú vị khi để mặc cho một đối thủ là Navarre đem mạo hiểm ở nơi đó những ngôi sao ngây thơ mà bản thân mình thì chẳng gãp nguy hiểm gì...

_______________________________________

1. Pierre l'Ermite: Nhà tôn giáo sinh ở Amiens (Pháp) (1050-1115) - Người tích cực kêu gọi và tham gia cuộc Thập tự chinh thứ nhất - N.D.



2. Elysés: lâu đài nổi tiếng ở góc phố Saint Hononé và phố Marigny xây dựng năm 1718. là dinh tổng thống Cộng hòa Pháp từ năm 1873 - N.D.



3. Ý nói của cách mạng Tư sản ở Pháp 1789.



4. Ponce Pilate: Toàn quyền của người La Mã ở Judée. Do sợ bị nổi loạn vừa giao chúa Jésus cho các quan tòa tôn giáo, nhưng không đánh giá là mình có lỗi, mà đánh giá là những người Do Thái phải chịu trách nhiệm về chuyện đó.





Logged
 

vitduc_199x

New Member
Ngày 16 tháng sáu 1953





Kế hoạch Navarre là cái gì đây? Không có gì khác ngoài cái mà vị tổng chỉ huy trình bày với các viên tư lệnh các vùng đất, được ông triệu tập tới Sài Gòn, ba tuần lễ sau khi ông tới đó ông vừa lần lượt tới thăm họ ở ngay sở chỉ huy của họ trong cái mùa thời (gian) tiết vừa biến bầu không khí thành một lò lửa. Ông vừa lắng nghe họ nói. Ông vừa ghi chép vào sổ tay. Ông vừa đi ra thực địa. Ông vừa kiểm tra các đơn vị của đạo quân viễn chinh, các đồn bốt độc lập, các tiểu đoàn của quân đội Việt Nam. Ông vừa nghe thấy tiếng đại bác nổ trong đêm khuya. Ông vừa nhìn thấy xác chết của đối phương trên hàng rào thép gai, nhìn thấy những người nông dân cầy ruộng đi sau con trâu của họ, gập đôi người trên đoạn tay cầy hay lon ton bước đi trên đường cái, chiếc đòn gánh kĩu kịt trên hai vai. Ông vừa điểm lại quân số, bố trí họ trên các tấm bản đồ, cân nhắc đi cân nhắc lại bài toán trong dầu. Ông vừa tìm cách quên đi tất cả những gì vừa học hỏi được ở châu Âu. Chưa một lúc nào ông có tham vọng đối với cái cương vị mà lời gợi ý của ngài René Mayer và vận mệnh của quân đội mang tới cho ông và không một ai có thể ngờ vực là ông làm chuyện để giành lấy thêm một ngôi sao, bởi lẽ Navarre là một con người trung thực. Được thông báo về những khả năng của con người, thậm chí ông biết rằng ông phải đề phòng đối với các tùy tùng của mình nhiều hơn là đối với đối phương. Tất cả đều phải thúc ép và ông cũng phải tự thúc ép mình giành chiến thắng. Cho đến tận lúc này, ông chưa hề có một quyết định nào. Có những quyết định được đề ra nhưng chưa bao giờ được lựa chọn ở cương vị này, và không phải là ông không biết rằng sẽ có những người phải chết vô ích khi các viên tướng mắc sai lầm. Nhưng mà giờ đây khi ông vừa nhận nhiệm vụ chỉ huy, chuyện này không phải do mánh khóe cầu xin gì, thì ông sẽ chỉ huy.



Như vậy là ngày 16 tháng sáu, ông trình bày rằng bản thân ông, Navarre, sẽ giải quyết bài toán như thế nào. Trước hết, trong chiến dịch sắp tới, người ta sẽ giữ mức hạn chế thận trọng, cốt để khôi phục lại đạo quân viễn chinh, trả lại tinh thần và sức sống cho đạo quân đó. Việc cần làm là tránh chạm trán quyết liệt với đại bộ phận quân đối phương. Những nguy cơ lớn nhất nằm ở miền Bắc, nhưng vùng đất này nằm chắc chắn trong tay các đơn vị có năng lực; ở đó người ta sẽ tiếp tục cái mà người ta dè dặt gọi là "công cuộc bình định". Và người ta sẽ ngăn ngừa trước những hành động tấn công của đối phương bằng cách đập tan chúng trước khi chúng kịp nổ ra. Miền Nam có nguy cơ sụp đổ nếu như các mối đe dọa hiện ra ở đó được đẩy lên khẩn trương hơn. Nhờ vào một vành đai bao vây thực hiện ở phía bắc vĩ tuyến 18, một cuộc tấn công tương đối dễ dàng sẽ thanh toán các đơn vị thuộc quân khu 5 của Việt Minh, bị ngăn cách với xứ Bắc Kỳ bởi một dãy núi hình thành một đường giới tuyến tự nhiên. Cuộc tấn công này sẽ mang tên Atlante. Ngược lại, trong chiến dịch tiếp sau đó, người ta sẽ tìm kiếm mục tiêu đối chọi. Trước tiên, người ta sẽ tấn công vào các kho lúa gạo, các vùng dự trữ nhân lực và cuối cùng là bản thân khối chủ lực của đối phương để tiêu diệt nó. Ý tưởng này được tướng Salan để lại cho ông thừa kế cùng với Điện Biên Phủ, trở thành nền tảng của kế hoạch.



Còn về phần quân đội ngụy Việt Nam, Navarre vừa lưu ý đến câu nói nhàm chán mà người ta lải nhải trước mặt ông để che giấu tình trạng bất tài của lớp sĩ quan và sự thờ ơ của binh sĩ: quân ngụy Việt Nam sẽ khôi phục mạnh mẽ các đơn vị chiếm đóng chính quy và sẽ cho phép chúng ta tăng cường khả năng tấn công. Đây chính là bản Kinh Thánh của nhà vua Jean(1). Nhưng mà nhà vua Jean thì vừa chết rồi và Navarre không lầm lẫn đối với bảng cân đối cụ thể của những con số. Nếu như quân ngụy Việt Nam hiên ngang bước đi trong các cuộc diễu binh thì đối với chuyện đánh nhau họ chẳng KẾT thú gì. Người ta hiểu được đội quân ấy: khác với Việt Minh, đội quân đó không biết được tại sao, bởi lẽ họ biết quá rõ là vì ai, mà người ta muốn họ chiến đấu.



Đó là những nét lớn trong chiến lược của Navarre. Chúng mang dấu ấn của một kỵ binh: phụ thuộc vào chuyện phòng ngự để hồi phục sức khỏe về thể chất và tinh thần cho đạo quân viễn chinh, sau đó sẽ áp dụng một tinh thần tiến công, dồn ép đối phương để ngăn cản đối phương tổ chức hành động tổng lực của các sư đoàn và tiêu diệt đối phương ở nơi nào mà không có ưu thế về quân số. "Người ta chỉ có thể chiến thắng bằng cách tấn công" đó là chủ đề của lá thư thứ nhất ông gửi cho đạo quân viễn chinh.



- Thưa các vị, các vị có ý kiến phản bác gì không?



Cogny có ý kiến. Tình hình bế tắc trên vùng đồng bằng làm cho ông sợ hãi. Ông cho rằng hệ thống bố trí tĩnh của ông có nguy cơ bị quân đối phương tràn qua một khi xảy ra cuộc tấn công tổng lực. Ông cũng lo ngại chuyện tổng chỉ huy sẽ rút khỏi vùng đất của ông những binh đoàn cơ động để sử dụng cho cuộc hành binh Atlante, sắp ngốn mất nhiều quân số. Khi ở Bắc Kỳ, Cogny vừa trình bày tình hình với tổng chỉ huy cũng với những tấm bản đồ, những bảng thống kê và cũng những ý tưởng vừa phục vụ cho chuyện thuyết trình với thống chế Juin, bốn tháng trước đây. Để cho tổng chỉ huy hiểu rõ tình hình, thậm chí Cogny vừa dùng một giọng nói nhỏ nhẹ gần như dịu dàng tỏ rõ một thái độ tôn kính quá mức, những dấu hiệu của tình cảm đó, Navarre vừa tiếp nhận với một lòng khoan dung và hơi buồn cười. Điều mà Cogny muốn thật đơn giản, sáng suốt và đúng đắn: trên vùng thượng du, né tránh những trận đánh không nắm chắc phần thắng và chỉ tung vào đó những đơn vị biệt kích hay những đơn vị chính quy gọn nhẹ, có thể luồn lách được. ở vùng đồng bằng, nơi tình trạng thối ruỗng đang lan rộng, duy trì một tư thế tấn công thường trực chống lại quân đối phương đang thâm nhập, cuối cùng tung ra những đòn đánh thường xuyên và ầm ĩ ở những vùng ven để làm rối loạn hệ thống tiếp tế hay làm lung lay chuyện đứng chân của các sư đoàn Việt Minh.



Navare đảm bảo sẽ làm như vậy. Thống chế Juin vừa nhắc ông về chuyện đó. Vì vậy ông cố gắng phá vỡ những đòn đánh của đối phương trước khi chúng diễn ra. Ông vừa bật đèn xanh cho Cogny một loạt những hành động theo kiểu đó.



Tất cả những chuyện đó toát lên sức khoẻ, sự sáng suốt, trạng thái thăng bằng. Người ta chỉ có thể thảo luận về thời (gian) cơ và hiệu quả của trận tấn công mà Navare muốn chơi sang ở phía nam vĩ tuyến 18, nhưng người ta vỗ tay khi ông bộc lộ ý định sâu xa của mình: "Mục tiêu số một của tui là xóa bỏ các thói quen. Đạo quân viễn chinh thiếu ý chí tiến công và tính cơ động. tui sẽ gắng sức để trả lại cho nó những đức tính đó". Cuộc tiến công này không có vẻ gì là đưa ông tiến thật xa và nó có thể giúp ông lay chuyển cái trạng thái vô cảm đang lan rộng. Một mình chịu trách nhiệm, ông là vị quan toà duy nhất. Điều tốt và rõ ràng, đó là chuyện ông quyết định và tuyên bố rằng trong chiến dịch sắp mở màn, ông sẽ né tránh trận đánh tổng lực.

_________________________________________

1. Bí danh của thống chế De Lattre de Tassigny. N.D.
 

koconyeu

New Member
Ngày 24 tháng bảy 1953





Cho mãi đến tận lúc này, riêng chỉ có Việt Minh là biết cách xây dựng các kế hoạch và thực hiện những kế hoạch ấy- Navarre bỏ ngoài tai những lời bàn tán ầm ỹ xung quanh kế hoạch của ông ta. "Chiến thắng sẽ đến nếu người ta thúc đẩy nó, sau khi vừa loại bỏ tất cả chướng ngại vật cản đường". Ông vừa nói như vậy.



Sáng sủa, điềm đạm, khuôn mặt như rạng rỡ lên từ một vầng sáng nội tại, nảy sinh từ trận thắng ở Lạng Sơn, những bức điện khẩn của các phái viên đặc biệt về trận thắng này hãy còn đang rung lên, tướng Navarre trình bày một cách thoải mái, bằng một giọng nói tự tin và rành mạch, ở điện Elysés, bản kế hoạch mang tên mình nhưng sự thực phải nói ông là đồng tác giả cùng với Salan. Cử toạ thật đáng nể? Tổng thống, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tám bộ trưởng, bốn quốc vụ khanh, một thống chế của nước Pháp và bốn vị tham mưu trưởng các quân chủng. Phải chăng Cogny nhờ vào cuộc thử nghiệm vừa ghi được ở Lạng Sơn, cùng với những tiếng vỗ tay vui hô vừa nâng Navarre lên bệ tượng đài? Sẽ là hiểu sai lệch không khí của những cuộc họp chính trị ấy, trong đó mỗi người chăm chú đề phòng những người ngồi bên cạnh mình và bảo vệ lợi ích của bộ mình, của khu vực mình. Chiến thắng non trẻ của Navarre ngược lại, có vẻ như phục vụ cho mục đích của mỗi người, bởi lẽ nó cung cấp dẫn chứng là người ta có thể giành được bước tiến chỉ với những phương tiện mà Navarre hiện có.



Bị chảy máu, phải đương đầu với những vấn đề của thời (gian) hậu chiến và những khoản đầu tư cho các chương trình xây dựng và tổ chức, đất nước tiếp tục mong muốn chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Vị chủ tịch hội đồng bộ trưởng mới không hề giấu giếm rằng chính phủ có ý định bắt tay vào cuộc thương thảo với đối phương ngay sau khi hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết. Vấn đề sự chi viện của Trung Quốc không có vẻ gì là được chính Navarre xem xét ngay trong phần đầu của bản tường trình, với giả thuyết là nó không gia tăng, lại vừa khơi gợi ra được nhiều ý kiến phản bác. Trung Quốc chỉ có thể thay đổi trong một thời (gian) gian dài, những kế hoạch đòi hỏi nỗ lực của nhiều triệu con người.



Trả lời ý định của ông muốn xây dựng một căn cứ không - lục quân ở Điện Biên Phủ để bảo vệ nước Lào, vấn đề phòng thủ mảnh đất này được đặt ra và không được giải quyết Từ đó Navarre kết luận rằng người ta để cho ông con bài trắng. Thực tế, nếu như các viên tham mưu trưởng vừa góp ý với chính phủ là không nên bắt buộc Navarre phải bảo vệ nước Lào, tuy nhiên chính phủ lại cũng không dám xóa bỏ cho ông nhiệm vụ đó. Người ta không thể nào "nói ra hay ghi thành văn bản là chúng ta sẽ không bảo vệ nước Lào". Câu nói này là của vị chủ tịch hội đồng bộ trưởng. Trong trường hợp câu chuyện bị rò rỉ, phải chăng người ta sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với các nước liên hiệp? Nhất là, liệu người ta có thể đề ra quyết định đó từ Paris chăng? Nói ngắn gọn, Uỷ ban Quốc phòng chui ngay vào một đám mây mỗi khi có chuyện đề ra một chỉ thị cụ thể cho viên tổng chỉ huy. Nước Lào ư? cần bảo vệ nó mà như không bảo vệ nó, lại vừa vẫn bảo vệ nó. Không được nói rằng người ta sẽ không bảo vệ nó và phải làm ra vẻ như người ta bảo vệ nó mà vẫn không có bất kỳ điều gì mạo hiểm khi ta bảo vệ nó. Còn về phần vị bộ trưởng tài chính, ông ta tuyên bố phản đối tất cả việc làm rỗng ruột kho bạc của ông ta, không một xu cho kế hoạch Navarre.



Tướng Corniglion- Molinier, bộ trưởng không bộ tuyên bố với cách nói hùng hồn và gay gắt vốn có. Sức mạnh của Corniglion nằm ở tính hài hước của ông, bởi lẽ đó là một con người rất tốt bụng. Là bay công, ông vừa từng hạ cánh ở Điện Biên Phủ vào năm 1946 cùng với Leclerc.



- Điện Biên Phủ ư? Ông kêu to lên như vậy trước mặt cử tọa cao cấp lúc đầu vui KẾT rồi sau sửng sốt.



- Các vị cứ tưởng tượng ra một sân bay ở giữa quảng trường Mars trong khi kẻ địch chiếm giữ quả đồi Chaillot(1). Hơn nữa, với một cự ly như vậy, cách xa Hà Nội và Hải Phòng, thì các máy bay chỉ có mỗi chuyện là bay lên và bay về.



Tướng Navarre đáp lại rằng đây là một quan điểm của bay công không phù hợp với ý kiến riêng của ông về tình thế hiện tại, tuy nhiên nỗi ngờ vực vừa nhen nhóm. Ngoài ra, trong khi vẫn thừa nhận rằng ông phải tiến hành một trận đánh rất ác liệt tướng Navarre vừa thẳng thắn mà nói rằng trận đánh đó có thể gặp phải những thất bại nặng nề.



Để kết luận, Uỷ ban Quốc phòng hết lời tán dương bản kế hoạch, tuy nhiên yêu cầu Navarre áp dụng kế hoạch tuỳ theo khả năng của ông và đề ra những kiến nghị tiết kiệm hơn trong một thời (gian) hạn khá gần.



Về sau Navarre nhiều lần nói rằng biên bản cuộc họp này không hề được thông báo cho ông và không phải là ông không biết rằng ngài René Mayer chỉ yêu cầu có mỗi một chuyện: tìm ra một lối thoát trong danh dự và rằng lập trường của ngài Joseph Laniel dù cho có vẻ hết sức nước đôi trước con mắt của ông và rất khó thay đổi, cũng chẳng khác chút nào.



Không một ai nhấn mạnh để giúp cho vị tổng chỉ huy và viên quốc vụ khanh về quan hệ với các nước liên hiệp tìm ra được một giải pháp đúng. Vị bộ trưởng quốc phòng, ngài René Pléven, phản đối chuyện đẩy mạnh cố gắng về quân sự nếu như chính phủ thuộc địa Việt Nam vẫn không quyết định xây dựng được một quân đội đích thực và ông yêu cầu rằng một nhiệm vụ rõ ràng phải được xác định cho tướng Navarre, chuyện này vừa không được tiến hành. Đó chính là điều mà ngài Laniel coi như những chỉ thị cụ thể nhất mà một chính phủ có thể đưa ra cho một viên tướng chỉ huy. Thốt ra từ cửa miệng của ngài Laniel, câu nói thật có duyên. Ngài Laniel là một người thợ dệt thật thà của vùng Calvados(2), được ông bố thúc đẩy bước vào con đường hoạt động chính trị và trở thành bộ trưởng nhờ vào trò chơi của tình bạn và những công chuyện giúp ích cho người khác. Ở cái tuổi sáu mươi tư, các biến cố vừa đưa ông trở thành một chủ tịch hội đồng bộ trưởng cũng như chẳng bao lâu sau đưa ngài Coty trở thành tổng thống nước cộng hòa, người này cũng như người kia đều là những mẫu số chung nhỏ nhất của các đảng chính trị.



Ngài Laniel không phải là một ai đó, cũng không phải là một vật gì đó, mà là một con số không. Nội các của ông được cấu tạo, cũng như các bài diễn văn của ông nhờ vào những cái kéo cắt và lọ hồ dán. Ở điện Matignon, người ta không gọi ông là "Chủ tịch" cũng chẳng gọi là "Ông chủ” mà là "Cái ông Joseph khốn cùng khổ".

________________________________________

1. Đồi Chaillot: Tòa nhà xây trên đồi Passy năm 1878, nhân cuộc triển lãm năm đó. Xây lại năm 1937. – N.D.



2. Calvados: một vùng của xứ Normandie (Tây Bắc nước Pháp). Một vùng công nghề giàu có. – N.D.
 

Webbe

New Member
Ngày 25 tháng bảy 1953





Navarre không tỏ vẻ quá ư khó chịu, ngày 24 tháng 7, đó là một thực tế. Có lẽ ông không đáng giá là người ta vừa tán thành toàn bộ bản kế hoạch của mình, nhưng ông tin chắc là người ta không bác bỏ nó. Ông không nổi nóng, ông không đe dọa xin từ chức. Ông không điện cho Sài Gòn để thay đổi các quan điểm về cách thức tiến hành các trận đánh. Ngày hôm sau nữa, Navarre vừa hạ lệnh nghiên cứu, trong trường hợp có một cuộc tiến công của đối phương trên vùng thượng lưu sông Mékong, một hành động phòng ngừa có nội dung là bất ngờ chiếm lấy vị trí Điện Biên Phủ.



Navarre vừa xem và sửa chữa bản mật (an ninh) lệnh này trước khi rời khỏi Sài Gòn và chắc chắn là ở ngay Paris. Do vì ông không có mặt ở Đông Dương cho nên chính đô đốc Auboyneau là người ký bản mật (an ninh) lệnh ấy, bởi lẽ đô đốc có thâm niên lâu hơn tướng Bodet, phó tư lệnh. Thủ tục quân sự không quan trọng: tác giả, chính là Navarre, ông vừa mới cụ thể hóa theo cách hiểu của ông những chỉ thị mà ông không nhận được.



Thử hỏi Navarre sẽ có lỗi ở chỗ nào khi hi vọng có được những phương tiện mà người ta mặc cả với ông? Liệu có ai dám trách cứ ông vì vừa muốn giành thắng lợi trong chiến tranh hay vì gần như đặt ra một chuyện đã rồi trước một chính phủ vốn chưa bao giờ bắt buộc ông phải đệ trình báo cáo trước khi lao vào bất cứ một chuyện gì? Bản mật (an ninh) lệnh ngày 25 tháng 7, khi được chuyển tới trên bàn các vị bộ trưởng và các tham mưu trưởng, không gây ra bất kỳ một xúc động nào, tuy nhiên nó vừa chứng tỏ rằng Navarre không hề thay đổi các ý định của mình và rằng ông đang chuẩn bị đánh chiếm Điện Biên Phủ, ở Paris người ta chẳng biết nơi đó là cái gì và do bản năng, người ta không muốn.



Vậy thì, ai là người dẫn dắt cuộc chiến tranh này? Chẳng có ai cả. Làm thế nào một trận đánh, như trận đánh Điện Biên Phủ lại sắp sửa nổ ra? Có phần nào là tình cờ. Tướng Navarre, người có nhiệm vụ duy nhất là tìm ra cho nước một lối thoát trong danh dự vừa hành động theo ý mình, với điều kiện không đòi hỏi thêm bất kỳ một sự tăng viện nào. Là một nhà quân sự giỏi, ông phải hiểu được điều đó. Người ta hiểu rằng ông thấy bất bình khi phải tung đạo quân viễn chinh ra theo ý kiến của cái viên cao ủy thiếu năng lực, những vị bộ trưởng chịu trách nhiệm về những mối quan hệ mơ hồ với các Quốc gia Liên hiệp, các tên gọi lạc quan, dưới cái tên ấy người ta tập hợp các chính phủ ma của Việt Nam, Lào và Cămpuchia, và những ủy ban quốc phòng địa phương. Nếu như, vì tình cờ, một vị bộ trưởng có điều gì ngờ vực về cơ sở đúng đắn của các hoạt động quân sự, ông ta sẽ xin ý kiến của vị chủ tịch hội đồng bộ trưởng, ông này không dám cho ý kiến và đành nghe theo. Còn về các phương tiện, quân số và vũ khí thì thuộc về ba quân khu, cùng với không quân và hải quân, các đơn vị này đều rất hà tiện xương máu của họ: và tiền bạc thì thuộc về Bộ Tài chính, bộ này không nhè ra một tí gì. Dưới triều đại của mười chín chính phủ kế tiếp nhau, chuyện vẫn là như vậy.



Từ bảy năm trời nay, tất cả chuyện diễn ra như vậy. Một vị tổng chỉ huy duy nhất, tướng De Lattre, vừa nổi giận và gạt bỏ các cấp trung gian, không phải là để có được những mệnh lệnh mà ông sẽ không đồng ý tiếp nhận mà là để đòi hỏi người ta phải khuất phục những mong muốn của ông ta; tiếng nói của ông vừa vang tới tận châu Mỹ, ông tới đó thuyết giáo về cuộc thập tự chinh của thế giới phương Tây. Khi ông chết, bầy ếch nhái lại trở lại vị trí cùng với bản đồng ca của chúng, và Salan vừa thận trọng bước đi xuyên qua bãi lầy của những con đường thứ bậc. Navarre vừa chấp nhận chuyện chỉ huy trong những điều kiện như vậy. "Cần phải có ai đó hi sinh thân mình", thống chế Juin vừa nói như vậy. Sau này, Navarre sẽ viết một cuốn sách để tự bào chữa. Nói về tình hình chính trị, về tinh thần tư tưởng của đạo quân viễn chinh Pháp và của quân ngụy Việt Nam về hoàn cảnh, về quyết tâm chiến thắng và về niềm tin của đối phương, cuộc phân tích mà ông viết ra là đúng đắn và rõ ràng. Ông vừa nhìn đúng. Ông không hề có chút ảo tưởng nào. Nhưng mà đó là một cuốn sách xuất hiện sau những biến cố chứ không phải là một cuốn nhật ký hành quân. Ngày chủ nhật cuối cùng của tháng bảy 1953, trước khi lên đường trở lại Đông Dương, trong một bữa ăn trưa ở chỗ các bạn hữu, Navarre vừa nhắc lại câu mà ông vừa nói với ngài De Chevigné để làm an lòng ông ấy: "tui sẽ không phạm phải các sai lầm của những người tiền nhiệm". Khi trở lại Sài Gòn, ông vẫn giữ nguyên những ý kiến ấy và ông chuẩn bị mở màn trận Điện Biên Phủ, cũng như Salan vừa mở màn trận Nà Sản.
 

Flannagan

New Member
Tháng tám 1953





Cogny lúc đầu, hình như nhìn nhận chuyện di chuyển các tiểu đoàn từ Nà Sản lên Điện Biên Phủ theo cách nhìn, số lượng là số lượng và giá trị là giá trị. Ông ta viết cho Navarre: “tui không tin tưởng tuyệt cú đối vào giá trị của trận địa hầm hào để bịt chặt một hướng. Luang Prabang cách Điện Biên Phủ hai trăm kilômét: chúng ta mạo hiểm một Nà Sản mới trong những điều kiện xấu hơn". Và ông ta đề nghị nhiều cách giải quyết, bởi lẽ hoàn cảnh vừa không còn tương tự như một tháng trước đây, để rút đơn vị đồn trú ở Nà Sản bằng đường bộ hay đường không, vừa bỏ lại tại chỗ một tiểu đoàn cuối cùng, tiểu đoàn này sẽ tan vỡ và chạy ra các khu du kích.



Thực tế, cuộc rút bỏ cuối cùng này được quyết định ngày 5 tháng tám ở Hà Nội, nhân cuộc viếng thăm của Navarre đến đây từ hôm trước để chủ trì một cuộc duyệt binh và trao tặng các huân huy chương của trận Lạng Sơn. Navarre gắn thêm một chiếc lá cọ lên các huân chương chữ thập chiến tranh của Cogny, De Gilles, của đại tá Ducournau hăng hái sôi nổi nhiệt tình, người chỉ huy trận đánh; của trung tá Raberin, người vừa cùng với binh đoàn cơ động của mình đi đón các đơn vị quân dù. ông gắn lên lá cờ hiệu của tiểu đoàn dù thuộc địa số 6, tiểu đoàn này do Bigeard chỉ huy, bản thân Bigeard trong bộ trang phục dã chiến, hai tay áo xắn ngược lên, người thẳng đơ, mái tóc cắt ngắn dưới một chiếc mũ nồi mầu đỏ đầy vẻ khiêu khích, tương tự như chiếc mào con gà sống, một nụ cười thoảng qua trên vành môi. Navarre cũng thế, đôi lúc ông mỉm cười, kể cả khi ông gắn huân chương lên vầng ngực đồ sộ của Cogny, đến nỗi tưởng như ông phải nhón mười đầu ngón chân để rướn người lên mới với tới. Vào thời (gian) kỳ này, ở Bắc Kỳ, người ta như sống trong lò lửa. Mồ hôi đầm đìa nửa thân trên tất cả người, thấm đẫm những chiếc áo sơmi. Những chiếc quần vải, nhanh chóng nhầu nát, bay phấp phới. Trong những giây phút khác, Navarre tựa như chìm đắm trong một vẻ trang nghiêm, nếu không phải là buồn bã. ông không phải là con người của những nghi lễ quân sự lớn. Cây gậy chỉ huy bọc da ông cầm trong bàn tay trái làm cho ông thấy dính víu. Cogny, về phía mình, chỉ có nghĩ tới Nà Sản. Điện Biên Phủ ư? ông vừa xếp cái kế hoạch này lùi vào phía sau khá xa của chuyện bố trí lại thế trận ở Lai Châu và theo ông nghĩ, Navarre cũng thế.



Với mục đích đánh lừa quân Việt, những bức điện giả vừa được viên tư lệnh trận địa ở Nà Sản đánh đi yêu cầu tăng viện cho mình ba tiểu đoàn. Để nhử mồi các đài quan sát, quân dù sẽ nhảy xuống từ những chiếc Dakota đầu tiên, sau đó máy bay dân dụng bắt đầu chuyện chở quân rút đi theo nhịp điệu cứ sáu phút xếp xong một máy bay, đúng theo yêu cầu của cơ quan vận tải quân sự. Người ta cũng đưa đi theo gần một nghìn hai trăm nông dân người Thái và ba trăm thân hào trong vùng lân cận vừa từng hợp tác với người Pháp: đàn ông, đàn bà, con trẻ trèo lên các khoang máy bay cùng với hành lý, bát đĩa, những chiếc chảo chất đầy quần áo cũ, chai lọ, trong lúc đó những chiếc B26 và máy bay khu trục bay lượn trên các đỉnh núi kế bên, sẵn sàng nổ súng vào tất cả vật động đậy.



Bất chấp những cơn giông nổ ra mỗi đêm và gây trở ngại cho chuyến đi, đến cuối buổi chiều ngày 11 tháng tám chỉcòn lại khoảng vài chục người phải bốc đi, trong lúc đó các máy bay khu trục phá hủy các kho đạn dược và những chiếc xe tải. Cogny tuyên bố ở Hà Nội: "tui thấy sung sướng hơn là buổi chiều ở Lạng Sơn". Henri Amouroux sau này hỏi viên thiếu úy Makowiak, người trở về sau cùng:



Anh sẽ làm gì nếu như chiếc máy bay của anh không thể hạ cánh được?



- tui sẽ đi bộ để quay về.



Việc Việt Minh không có phản ứng là do một sự cố nhỏ nhưng lại có tầm vóc lớn: máy thông tin trên đài quan sát của đối phương bị hỏng hóc. Sửa chữa xong, máy vô tuyến chuyển đi các bức điện vừa bị dồn đống lại, trái ngược với trật tự về thời (gian) gian...



Khi mà bộ chỉ huy quân Việt biết được tầm quan trọng của thông tin đó thì vừa quá muộn để hành động. Cogny vừa có lý khi nói rằng thắng lợi vượt quá tất cả hi vọng. Phải chăng về cơn mưa những lời ca ngợi đổ xuống các viên tướng của họ ngày hôm sau, các bay công phải mắc nợ chuyện làm ngớ ngẩn của một chiến sĩ thông tin đối phương. Mười năm sau, khi tui đặt ra câu hỏi cho tướng Giáp, ông vừa mỉm cười vừa trả lời:



- Một trong những nguyên tắc chiến lược của chúng tui là tìm cách giành quyền chủ động, Navarre vừa nói rất nhiều về chuyện giữ vững quyền chủ động của ông ta. Các đơn vị bao vây Nà Sản số lượng không nhiều lắm và thời (gian) kỳ đó không nằm trong thời (gian) kỳ các hoạt động lớn của chúng tôi. Chúng tui đã nghĩ là nếu Navarre rút bỏ cứ điểm Nà Sản, thì chuyện đó sẽ thuận lợi cho chúng tôi.



Con người lạc quan này, tui thấy hình như che giấu một chút bực mình nào đó.



Với chuyện rút bỏ Nà Sản, một thắng lợi mới được ghi vào bản thành tích của Navarre. Trước ngưỡng cửa của chiến dịch vừa mở màn, tướng Giáp quyết định nhổ bỏ cứ điểm kể cả nếu như ông phải tung ra những đợt xung phong bước qua tất cả, bởi lẽ tướng Giáp biết rằng người ta không tính đến số người chết khi mà thắng lợi nằm ở cuối trận đánh và các binh sĩ của ông chấp nhận cái chết với một niềm phấn khích. Điều đó vừa làm cho chúng tui cảm giác ớn lạnh xương sống. Người ta có thể giả định một cách đúng đắn rằng chuyện rút bỏ Nà Sản thành công vừa mang đến cho đối phương một nỗi thất vọng khá là cay đắng mà tướng Giáp chỉ tìm cách để che giấu. Người ta sẽ quan tâm đến điều đó. Người ta chuẩn bị cho ông ta một đòn phản kích.
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top