daigai

Well-Known Member
Một số bài văn mẫu cho các bạn trẻ


Ta là Thánh Gióng, con thứ hai của Ngọc Hoàng thượng đế, hôm nay ta sẽ kể cho các cháu nghe câu chuyện ngày xưa ta đã đánh đuổi giặc Ân như thế nào.

Nghe tin giặc Ân sắp sang xâm lược, vua cha cử ta xuống giúp dân đánh đuổi. Muốn biết dân chúng dưới trần đánh giặc ra sao, người khuyên ta nên đầu thai xuống trước vài năm. Ta nghe lời, bèn chọn một gia đình cùng kiệt khó, lại hiếm muộn đường con cái, đó là một lão nông cùng kiệt khó ở làng Phù Đổng. Hai vợ chồng giả cả mà lại không có con cái làm vui, biết hôm ấy bà già ra thăm đồng, ta bèn hóa phép làm một vết chân kỳ dị. Quả nhiên bà lão thấy lạ bèn ướm thử chân vào, thế là ta nhân đó hóa luôn thành bào thai trong bụng bà cụ.

Hai ông bà mừng lắm, đủ ngày đủ tháng thì ta ra đời. Để nghe ngóng lòng người, ta quyết không nói không rằng suốt ba năm, mặc cho bố mẹ tha hồ dỗ dành. Nước mắt bà cụ chảy tràn như suối, ta biết bà buồn lắm nhưng đã định từ trước như vậy nên suốt ngày nằm im, quay mặt vào vách.

Giặc kéo đến, chúng đi hàng đàn hàng lũ, thế rất mạnh, quan quân triều đình đánh không nổi. Khắp nơi náo loạn, vua bèn cho sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài để giúp nước. Tiếng xứ giả vang khắp nơi, thời khắc quyết định đã đến. Ta vươn vai đứng dậy rồi nói với mẹ.

Mẹ ra bảo sứ giả vào đây cho con nói chuyện.

Mẹ ta lúc đang chuẩn bị quang gánh thep dân làng đi chạy giặc, nghe ta nói thế thì vô cùng sửng sốt và mừng rỡ, vội ra gọi sứ giả vào.

Sứ giả vào, thấy ta chỉ là một cậu bé con, có ý coi thường và thất vọng.

Thằng bé này thì đánh sao nổi giặc ?

Thấy ông ta nói vậy, ta quyết định dọa ông ta để chơi. Với một tay lấy chiếc cối đá, ta chỉ hất khẽ một cái « huỵch », chiếc cối đã rơi sát bên chân ông ta. Sứ giả biết ta không phải là người thường, vội quỳ xuống nói.

Xin thần tiên thứ tội. Người cần binh khí gì và thêm bao nhiêu quân đánh giặc ạ ?

Ta cho sứ giả đứng dậy rồi bảo.

Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, hẹn ngày mai phải xong.

Sứ giả vội lĩnh ý ra về. Ta quay sang nói với mẹ.

Mẹ chuẩn bị thật nhiều cơm cho con ăn, để con còn lấy sức đi đánh giặc.

Mẹ ta nấu một nồi cơm đầy, ta chỉ ăn đánh vèo một cái đã hết mà vẫn chưa thấp tháp gì. Mẹ bối rối vì trong nhà hết sạch gạo, may sao bà con hàng xóm biết chuyện, các nhà đều về nấu cơm mang sang. Bảy nong cơm, ba nong cà, ta cũng chỉ ăn loáng cái đã hết. Ăn xong, ta vươn mình đứng dậy, bước ra sân thì người đã quá mái nhà. Mọi người ai lấy làm mừng rỡ, vội về chuẩn bị dao, gậy để đi đánh giặc.

Hôm sau sứ giả mang đến một con ngựa sắt, một chiếc nón sắt và một chiếc roi sắt nhỏ. Nón thì ta đội không vừa, roi sắt thì vừa đập xuống đã gãy, ngựa sắt tung bờm hí vang nhưng với ta lúc này, trông nó không khác một con mèo nhỏ. Ta bảo sứ giả.

Ngươi về rèn ngay một con ngựa to gấp mười lần con này, một chiếc nón thật to và một chiếc roi thật lớn.

Sứ giả vâng lệnh, nhà vua biết tin bèn tập hợp tất cả sắt thép mọi nơi, tất cả thợ giỏi đều được vời về cung để kịp rèn cho ta một con ngựa sắt to đúng bằng một con voi, một chiếc nón to đúng bằng một tán cây đa và một cây gậy to đúng bằng cột đình.

Mọi thứ đã có đủ. Ta đội nón sắt, cầm gậy sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt vươn cổ hí lên một tiếng, lửa phun rừng rực đốt cháy trụi cả một đám tre đầu ngõ.

Lạy mẹ con đi !

Ta nói rồi ra roi, lên ngựa. Ngựa tung bờm phi nước kiệu đưa ta thẳng đến chỗ quân giặc, khắp nơi nhân dân nô nức cầm dao, gậy theo sau. Ngựa phi đến đâu, tre hai bên đường vàng sém đến đấy ( sau này được gọi là tre đằng ngà). Vết chân ngựa in xuống đất thành một dãy ao hồ ( bây giờ vẫn còn ở làng Phù Đổng).

Trông thấy ta từ xa, quân giặc vội quay đầu, vứt giáo tháo chạy. Nhưng chúng chạy đâu cho thoát ? Ngựa ta phun lửa đốt chúng cháy trụi từng mảng roi sắt ta vung ra một lần thì có cả chục thằng bị hất tung lên trời. Những thằng sống sót đều bị dân chúng đi theo tiêu diệt cả.

Bỗng « rắc » một cái, chiếc roi sắt gẫy làm đôi. Quân giặc thấy thế mừng rỡ định hè nhau xông lại. Sẵn các bụi tre bên đường, ta vươn mình nhổ bật lên quật túi bụi xuống đầu giặc. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tan tác không còn một mống.

Giặc tan, vua cho sứ giả ra tận nơi, phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương, mời về kinh thành để ban thưởng. Nhưng từ trên mây cao Ngọc Hoàng đã cất tiếng gọi ta rồi.

Gửi dân lời chào bố mẹ, ta một mình một ngựa lên núi. Lên đến đỉnh, ta cởi áo giáp vắt trên ngọn cây cao, ngựa sắt cất cánh từ từ bay vào không gian.

Thế đấy các cháu ạ. Nhiều người hỏi ta sao không ở lại mà lãnh thưởng, ta đã bảo họ rằng : ta tuy có tiêu diệt được nhiều quân giặc thật, nhưng chiến công này trước hết thuộc về cha mẹ nuôi ta, về dân làng Phù Đổng đã góp gạo, góp cà nuôi ta không lớn, về nhân dân khắp nơi đã không quản hiểm nguy, theo ta đi đánh đuổi quân thù.

Trích dẫn từ Sau khi dẹp xong giặc:
Bài làm

Vừa chen chân lên thiên đình, Thánh Gióng đã được cả triều đình đón tiếp long trọng. Một bữa tiệc tưng bừng được tổ chức mừng Thánh Gióng hoàn thành nhiệm vụ mà Ngọc Hoàng giao phó. Ban tặng rượu quý cho Thánh Gióng xong, Ngọc Hoàng ân cần hỏi:

_ Hãy báo cáo cho trẫm và cả triều thần được biết, khanh đã làm gì với lũ giặc để cứu nước Văn Lang khỏi ách ngoại xâm?
Thánh Gióng từ tốn đáp:

_ Dạ, muôn tâu Ngọc Hoàng, nhận được ân đức của Ngọc Hoàng, thần đã đầu thai làm con một gia đình rất tốt bụng ở làng Gióng. Đến lúc đất nước có biến, thần đã cất tiếng nói xin đi đánh giặc. Thật sự lúc đó, thần đã làm cho mọi người, nhất là sứ giả và mẹ thần ngạc nhiên. Sau đó, để có thể lấy lại sức mạnh, thần đã được sự giúp đỡ của toàn dân làng. Ai có gạo góp gạo, có cà góp cà, có vải góp vải may áo cho thần. Thần đã ăn rất nhiều gạo, nhiều cà của người dân trung hậu, tốt bụng, yêu nước của làng Gióng và có được sức mạnh của một dũng sĩ. Khi sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, thần đã vươn vai trờ về đúng vóc dáng của mình trong sự vui mừng và ngạc nhiên của mọi người.

Phải nói dân Văn Lang rất biết chế tác đồ sắt. Họ đã làm ngựa, giáp, roi rất đẹp, tinh xảo lại chắc chắn.

Với sức lực và vũ khí tốt, thần đã làm cho kẻ thù kinh sợ. Roi sắt của thần tiêu diệt không biết bao nhiêu kẻ thù. Vì sử dụng nhiều nên roi sắt gãy. Không hề nao núng, thần nhổ những bụi tre bên đường quật túi bụi vào giặc. Cây cối của Văn Lang cũng là vũ khí lợi hại để giết giặc, chúng chết như ngả rạ, giẫm đạp lên nhau, chạy bán sống, bán chết. Thần đã đuổi hết chúng khỏi Văn Lang, để lại giáp sắt bay thẳng về đây để báo cáo với Ngọc Hoàng.

Nghe Thánh Gióng nói xong, Ngọc Hoàng cười hài lòng:

_ Khanh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của trẫm, khanh thật đáng khen. Không chỉ có phần thưởng trên Thiên đình, khanh còn được nhân dân Văn Lang muôn đời nhớ ơn, lập đền thờ tại làng Gióng, đền Sóc. Khanh xứng đáng được hưởng tất cả những điều đó!

Thánh Gióng tạ ơn của Ngọc Hoàng và xin lui về nghỉ ngơi sau trận chiến đấu vất vả vì đất nước Văn Lang.
 

daigai

Well-Known Member
Thêm bài nữa:

Các cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, người năm xưa đX một mình đánh
thắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé!
Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân
xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra
lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lXo nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta
thấy bà lXo phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lXo đX tò mò ướm thử vậy là
ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đX vô cùng mừng rỡ khi chờ mXi, sau mười hai
tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu
thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mXi đến
tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất
thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đX trao cho nên ta vẫn phải im lặng.
Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ.
Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đX đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một
hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang
ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ:
1 Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hXy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện.
Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi
gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ:
1 Mẹ đừng e sợ gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!
Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vX ra mới sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh
toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên
giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: "Ông về tâu với vua sắm cho ta
một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Nghe những lời nói
đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vX trở về
tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai
cũng phấn khởi khi thấy vua đX tìm được người tài.
Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đX thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu
cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đX hết
nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta ăn vào
bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn ba nhiêu
cũng chưa no trong khi gạo thì đX hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng
giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp,
người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp
mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai
cũng khấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nước.
Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đX kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen
khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi
người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta
cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đX biến thành một tráng sĩ cao lớn phi
thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi
người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử
chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đX gẫy, mXi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đX được chuẩn
bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ
hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến
thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con
xóm giềng, cha mẹ những người đX yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để
không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ.
Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa
rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa
của con chiến mX. Cả bXi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bXo
thì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ
giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác
khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vX thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về
nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rX.
Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đX
hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi
hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần
cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta
ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng.
Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Sau đó, vua đX phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận
danh hiệu đó, bởi ta đX đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá
nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh
thắng quân giặc.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Vận dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào bài vai trò, đặc điểm và các nhân Luận văn Sư phạm 0
D Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
L Phân tích vai trò của ODA và FDI vào Việt Nam trong thời gian tới Luận văn Kinh tế 0
T Nghiên cứu sự phân bố, hoạt động và vai trò của một số nhóm vi sinh vật tham gia vào các chu trình c Luận văn Sư phạm 0
D Vai trò của nhà nước đối với xuất khẩu lao động - kinh nghiệm của một số nước và vận dụng vào Việt N Luận văn Kinh tế 0
M Vai trò của các tổ chức dựa vào cộng đồng trong hoạt động phòng, chống HIV/AIDS tại Bắc Kạn Văn hóa, Xã hội 2
P Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào việc nhậ Kinh tế chính trị 0
C Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát huy vai trò của phụ nữ tại tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạ Văn hóa, Xã hội 0
M ận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc nâng cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chố Văn hóa, Xã hội 0
C Nghiên cứu vai trò của du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng trong quản lí theo định hướng, phát triển Khoa học Tự nhiên 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top