lylac31082004

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

ink tải miễn phí Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2011
Chủ đề: Đỗ, Bích Thúy
Văn học Việt Nam
Truyện ngắn
Nghệ thuật trần thuật
Miêu tả: 112 tr. + CD-ROM+Tóm tắt
Luận văn ThS. Văn học Việt Nam -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011
Tìm hiểu về người trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của tác giả Đỗ Bích Thúy. Nghiên cứu nghệ thuật tổ chức kết cấu và cốt truyện trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy. Trình bày và phân tích ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của nhà văn Đỗ Bích Thúy
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
5. Kết cấu luận văn.......................................................................................... 7
NỘI DUNG..................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1. NGƢỜI TRẦN THUẬT VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY .............................................. 8
1.1. Lý thuyết về nghệ thuật trần thuật ............................................................ 8
1.2. Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
........................................................................................................................ 9
1.2.1. Người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy................................. 9
1.2.1.1. Khái quát về người trần thuật.............................................................. 9
1.2.1.2. Người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy............................. 11
1.2.1.2.1. Người trần thuật hàm ẩn ................................................................. 13
1.2.1.2.2. Người trần thuật tường minh........................................................... 16
1.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ......................... 18
1.2.2.1. Khái quát về điểm nhìn trần thuật ...................................................... 18
1.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ...................... 21
1.2.2.2.1. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài....................................................... 21
1.2.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật bên trong ....................................................... 26
1.2.2.2.3. Điểm nhìn trần thuật phức hợp ....................................................... 31
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY ............................................ 37
2.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy................... 37
2.1.1. Khái niệm về kết cấu và kết cấu trần thuật ........................................... 37
2.1.1.1. Kết cấu .............................................................................................. 37
2.1.1.2. Kết cấu trần thuật............................................................................... 38
2.1.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy .............. 39
2.1.2.1. Kết cấu đơn tuyến.............................................................................. 39
2.1.2.2. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lí.................................................... 43
2.1.2.3. Kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật........................................................ 48
2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy .............. 53
2.2.1. Khái niệm về cốt truyện........................................................................ 53
2.2.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ......................................... 55
2.2.2.1. Cốt truyện đơn giản ........................................................................... 55
2.2.2.2. Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ................................ 57
2.2.2.3. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện............................................... 61
CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY ............................................................ 66
3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ............................. 66
3.1.1. Khái quát về ngôn ngữ trần thuật.......................................................... 66
3.1.2.Lời văn trần thuật và lời văn miêu tả trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
67
3.1.2.1. Lời văn trần thuật .............................................................................. 67
3.1.2.1.1. Lời trần thuật gián tiếp của người kể chuyện .................................. 68
3.1.2.1.2. Lời trần thuật nửa trực tiếp ............................................................. 70
3.1.2.2. Lời văn miêu tả.................................................................................. 75
3.1.2.2.1. Lời văn miêu tả thiên nhiên ............................................................ 76
3.1.2.2.2. Lời văn miêu tả về cuộc sống con người miền núi .......................... 83
3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ........................... 89
3.2.1. Khái quát về giọng điệu trần thuật ........................................................ 89
3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ........................ 91
3.2.2.1. Giọng điệu trữ tình, mộc mạc, chân chất............................................ 91
3.2.2.2. Giọng điệu cảm thương, xót xa.......................................................... 97
3.2.2.3. Giọng điệu triết lý, giản dị mà sâu lắng............................................. 100
KẾT LUẬN.................................................................................................. 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 112
1. Lí do chọn đề tài
1. Nói đến văn học Việt Nam, chúng ta nói đến cả quá trình phát sinh và
phát triển. Đặc biệt là từ sau năm 1975 với công cuộc đổi mới của Đảng cộng
sản Việt Nam, một cuộc đổi mới được thể hiện trên nhiều bình diện. Song về
cơ bản vẫn là giai đoạn văn học tiếp cận cuộc sống từ bình diện thế sự - đời
tư. Chính xu hướng đó đã kích thích sức sáng tạo không ngừng của các văn
nghệ sĩ.
Bước sang thế kỉ XXI, từ sự đổi mới về nhiều mặt và sự mở rộng biên độ
cho cho người sáng tác khiến cho văn học đương đại của Việt Nam được vận
động, phát triển liên tục. Để đáp ứng mọi nhu cầu sáng tác của người cầm bút,
nhiều nhà văn tên tuổi đã đi đầu trong phong trào đổi mới đó. Tiêu biểu như:
Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp...
Chính lẽ đó, trong những năm gần đây, văn học Việt Nam xuất hiện nhiều
gương mặt những nhà văn trẻ có triển vọng. Họ đi sâu vào nhiều góc cạnh của
đời sống, từ thế sự cho đến đời tư của con người. Đặc biệt, các nhà văn trẻ
quan tâm nhiều đến số phận, hoàn cảnh sống éo le và đến cả những cái rất
riêng, những điều nhạy cảm nhất trong cuộc sống đa dạng của con người. Một
trong số đó phải kể đến nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy, chị đã góp phần làm cho
bộ mặt của văn học Việt Nam thêm một diện mạo mới.
2. Nhà văn Đỗ Bích Thúy sinh ngày 13/04/1975 tại Hà Giang. Chị sinh ra
và lớn lên trên mảnh đất địa đầu của Tổ quốc - một địa danh gắn liền với
khung cảnh núi rừng Tây Bắc đã đi vào trang thơ, trang văn của rất nhiều nhà
thơ, nhà văn. Chị là thế hệ những nhà văn trưởng thành sau năm 1975, khi đất
nước đã không còn tiếng súng. Một đất nước sống trong hòa bình, tự do
nhưng con người phải đối mặt với nhiều điều phức tạp của cuộc sống.
Có thể nói, cuộc đời Đỗ Bích Thúy không phải là một đường thẳng, xuyên
suốt mà nó đầy sự biến động. Con đường tìm đến văn chương của chị là cả
một quãng đường, tuy không dài nhưng nhiều bước chuyển mình
Tuổi trẻ của Đỗ Bích Thúy cũng giống như bao cô gái mới lớn khác, chị
có rất nhiều dự định và ước mơ trong sáng, cụ thể như mơ ước trở thành cô
giáo. Song ý định ấy không trở thành hiện thực, bởi không biết vì nguyên do
gì mà Đỗ Bích Thúy lại học Cao đẳng Tài chính - Kế toán và trở thành một
nữ kế toán cho báo Hà Giang. Nhưng với niềm đam mê văn chương nghệ
thuật, từ một nữ kế toán chị chuyển sang lĩnh vực viết lách, làm báo. Thời
gian làm việc cho báo Hà Giang không nhiều nhưng với bốn năm lăn lộn với
nghề báo, phải trèo đèo lội suối, đi vào những thung sâu, bản xa lấy tư liệu đã
giúp Đỗ Bích Thúy hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống con người. Sau đó, chị về
Hà Nội học tiếp lên đại học. Trong những tháng ngày là sinh viên, chị miệt
mài chăm chỉ học tập để mong có thêm nhiều kiến thức về phục vụ cho công
việc làm báo sau này của mình. Sống trong môi trường sinh viên thiếu thốn
đủ thứ và lại là người con sống xa nhà, xa quê, Đỗ Bích Thúy luôn đau đáu
nhớ về quê hương - nơi có bố mẹ, anh chị em và bạn bè. Hơn lúc nào hết,
ngòi bút lại thôi thúc chị viết, chị viết trong một không gian chật hẹp của kí
túc xá. Nơi đó có những chiếc giường tầng cùng với chiếc bàn gấp nhỏ bé, có
thể di chuyển mọi lúc mọi nơi. Cũng trong thời gian học tập này, chị đã gửi
những bài viết của mình đến Tạp chí văn nghệ quân đội để dự thi. Kết quả là
chị đã dành giải nhất.
Quan niệm viết văn của Đỗ Bích Thúy hết sức đơn giản, chị vẫn thường
nói viết chính là nhu cầu nội tâm. Đặc biệt viết văn đối với chị như là sự trả
ơn, nên trong cuộc đời viết văn của mình, chị đã định hình một cách viết
không quá ồn áo, hoa mĩ, không gây ra những cú sốc mạnh như những bạn
viết cùng trang lứa. Đầu sách của chị nằm khiêm tốn trong hiệu sách và cũng
chỉ những ai thực sự say mê văn chương đích thực mới tìm đến, quan tâm đến
chị và sách của chị. Điều đó cũng đủ để Đỗ Bích Thúy lặng lẽ, điềm đạm và
cần mẫn viết.
Những tập truyện của Đỗ Bích Thúy phần lớn chỉ viết với một đề tài duy
nhất, đó là đề tài miền núi, lại chỉ với một địa danh quen thuộc - Đó là mảnh
đất Hà Giang - quê hương yêu dấu của chị. Miền núi - đúng như tên gọi của
nó: hoang sơ, lạ lẫm và bí hiểm nhưng chị đã khai thác chiều sâu phức tạp
trong cuộc sống cũng như nhân cách và phẩm chất của con người vùng núi
phía Bắc một cách chân thành và thắm đượm tình quê.
Đến nay, Đỗ Bích Thúy đã là một cây bút được khẳng định và là nữ phó
tổng biên tập đầu tiên trong lịch sử hơn 50 năm của Tạp chí văn nghệ quân
đội. Với công việc này, chị không chỉ gánh trọng trách của người quản lý mà
còn phải nỗ lực hơn nữa trong việc sáng tác của bản thân mình.
3. Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã có một số người lấy làm đề tài
nghiên cứu nhưng chưa ai đi sâu vào việc áp dụng lí thuyết về nghệ thuật trần
thuật để tìm hiểu về phong cách sáng tạo trong truyện ngắn của chị.Vì lí do
trên, tui mạnh dạn chọn đề tài: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ
Bích Thúy”.
2. Lịch sử vấn đề
Đỗ Bích Thuý đến với văn chương từ rất sớm, chị từng sáng tác và gửi bài
cho báo Tiền Phong từ năm 19 tuổi với tác phẩm đầu tay của mình là Chuỗi
hạt cườm màu xám và đã để lại ấn tượng không nhỏ trong lòng bạn đọc.
Nhưng bước ngoặt để tên tuổi chị có chỗ đứng trong làng văn học hiện đại là
phải kể đến cuộc thi truyện ngắn kéo dài 2 năm 1989 - 1999 do Tạp chí văn
nghệ quân đội tổ chức. Kết quả là chị đã dành giải nhất với chùm tác phẩm:
Ngải đắng ở trên núi, Đêm cá nổi và Sau những mùa trăng. Đặc biệt là
truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của chị đã được đạo diễn Ngô
Quang Hải chuyển thể thành kịch bản phim Chuyện của Pao. Bộ phim này đã
đoạt giải Cánh diều vàng năm 2005 của hội điện ảnh Việt Nam. Từ đây, tên
tuổi của chị được báo giới biết đến và lưu tâm nhiều hơn.
Trên báo văn nghệ trẻ, số ra ngày 11/3/2001, Điệp Anh có bài Gặp hai nữ
thủ khoa truyện ngắn trẻ đã nhận xét: “ Thế mạnh của Đỗ Bích Thuý là đời
sống của người dân Tây Bắc, với những không gian vừa quen vừa lạ, những
phong tục tập quán đặc thù khiến người đọc luôn cảm giác tò mò và bị cuốn
hút (...). Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý, không gian Tây Bắc hiện lên
đậm nét, để lại dư vị khó quên trong lòng độc giả” [02;03].
Nhà văn Chu Lai - một cây bút kì cựu trong làng văn có bài Cái duyên và
sức gợi của hai giọng văn trẻ được đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội
tháng 7 năm 2001. Ông đã cảm nhận về văn của Đỗ Bích Thuý như sau: “Đọc
Thuý người ta có cảm giác như được ăn một món lạ, được sống trong một
mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian
của hương vị núi rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh, của mây trời đặc
sánh “như một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi ngải
đắng, mần tang, của những nét ăn, nét ở, phong tục tập quán còn giữ nguyên
vẻ hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm,
trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau”, của những trái tim con gái vật vã,
cháy bùng theo tiếng khèn gọi tình dưới thung xa, của bếp lửa nhà sàn và
tiếng mõ trâu gõ vào khuya khoắt, của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm
bịp say thuốc, say rượu ngủ khì khì bên chân chủ” [31;104].
Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy và Nguyễn
Ngọc Tư là bài viết của Phạm Thùy Dương được đăng trên Tạp chí văn nghệ
quân đội (661) tháng 1 năm 2007. Phạm Thùy Dương có nhận xét : “Nổi lên
trong trang viết của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy là cái nhìn nhân ái về
con người (...) Đằng sau cuộc sống, khí chất của con người mỗi vùng đất là
tình cảm cảm thương sâu sắc của nhà văn tới những con người bất hạnh”
[13;102].
Trung Trung Đỉnh với bài Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy in trên báo
Văn nghệ số 5, ra ngày 3/2/2007 cũng cảm nhận khá sâu về văn phong Đỗ
Bích Thúy: “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền
thống của con người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không
kể về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội,
phong tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù tác giả
đổ xuống từng vạt núi vàng sậm, cả cánh rừng sồi, rừng dẻ mướt óng phía xa”
[65;212]. Đó là hình ảnh một buổi chiều trôi một cách “chậm chạp” khiến cho
khung cảnh thiên nhiên nơi núi rừng trở nên êm đềm và có phần ảm đạm.
Thiên nhiên ở đây còn được Đỗ Bích Thúy miêu tả giống như một bài thơ
không chỉ ở chất họa mà còn ở chất nhạc. Đỗ Bích Thúy đã dùng cả đôi tai
tinh nhạy để miêu tả theo kiểu “lấy động để tả tĩnh”. Để dựng lên không gian
yên ắng, vắng lặng, tác giả miêu tả: “Đêm hoang vu, thăm thẳm. Lẫn trong
tiếng gió là tiếng nước trườn êm ái trên đá cuội” [65;114] (Đá cuội đỏ). Hay
truyện Sau những mùa trăng, tác giả miêu tả hình ảnh bản làng vào đêm
khuya: “...bản đã yên ắng lắm, nghe rõ cả nước đập vào ghềnh đá rào rào
ngoài sông, tiếng trâu thở phì phì đuổi muỗi, tiếng chim lợn rít lên cuối rừng...
Và càng rõ hơn tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc cao
vun vút, rộn rã như tiếng chim buổi sớm” [65;338]. Âm thanh của tiếng tắc
kè, của gió, của quả trong Giống như cái cối nước: “Tiếng tắc kè nhả từng
đợt từng đợt, xót cả ruột. Gió lùa bên ngoài, lay cây sổ đầu hồi, quả rụng
xuống lộp bộp. Chỉ còn những âm thanh của trời đất, cây cỏ, có lẽ đã quá nửa
đêm” [65;134].
Một bức tranh hài hòa về màu sắc và âm thanh. Màu vàng của ánh trăng,
màu trắng, màu xanh, màu hồng sẫm, màu tím của hoa lê, hoa tam giác mạch,
của cây ngải đắng, màu đỏ của mặt trời và của đá núi... Âm thanh của gió, của
tiếng suối reo, của tiếng gà eo óc gáy trong sương, của tiếng con tắc kè trễ nải
buông tiếng kêu...Tất cả được miêu tả ở những thời điểm khác nhau mà nhà
văn đã thêu dệt lên một bức tranh đầy sức sống, lan tỏa hơi ấm của tình người.
Điều đó có được là nhờ vào điểm nhìn của con người đã thấm đẫm hơi thở
của một thời gắn bó không thể nào quên với nơi đây. Tất cả những cảnh sắc
đó như vẫy chào những người con của núi lại trở về với đất mẹ yêu thương.
3.1.2.2.2. Lời văn miêu tả về cuộc sống của con ngƣời miền núi
Chúng ta đã biết đến một nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được nhà văn Nguyễn
Quang Sáng mệnh danh là “Sơn... Nữ”. Bởi chính đời sống dân dã vùng sông
nước Cà Mau đã hun đúc lên một nhà văn đặc sệt chất Nam Bộ. Còn Đỗ Bích
Thúy lại được hun đúc bởi phong tục tập quán của người dân Tây Bắc nên
những trang văn của chị thấm đẫm nét văn hóa đặc trưng của vùng. Tiêu biểu
là cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng người dân tộc: Mông, Tày, Dao sống
trên vùng cao núi đá của tỉnh Hà Giang.
Trong những câu chuyện được kể của Đỗ Bích Thúy chủ yếu lấy đề tài
miền núi. Điều đó khiến cho truyện ngắn của chị đặc quện không gian miền
núi và văn hóa miền núi. Vì lẽ đó chị đã khéo léo lồng ghép vào câu chuyện
của mình những nét văn hóa đặc trưng như: cuộc thi ném còn, những lễ hội
đầu xuân, những tiếng đàn môi gọi bạn tình, những buổi chợ phiên sặc sỡ sắc
màu. Cách viết của Đỗ Bích Thúy khi nói về văn hóa tập tục vùng cao bao giờ
chị cũng sử dụng ngôn ngữ giải thích. Cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt như
vậy khiến cho độc giả vừa như được chứng kiến câu chuyện kể vừa như được
tắm mình trong không khí của văn hóa nơi đây. Cụ thể như truyện Tiếng đàn
môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích Thúy vừa sử dụng ngôn ngữ miêu tả về ngày hội
ở chợ phiên diễn ra vào 27/3 âm lịch hàng năm, tác giả vừa sử dụng thứ ngôn
ngữ bình luận giải thích để người đọc không cảm giác lạ lẫm: “Ai cũng biết
mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau (...)
Cả năm cúi mặt ngoài nương, cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về nhà cúi mặt về
con lợn con gà, mãi mới có lúc thảnh thơi. Không bị trẻ con quấn chân nên ở
chợ mọi người tha hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ,
đàn bà quên chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười” [65;18]. Tác giả
còn sử dụng cả phép liệt kê để giới thiệu một loạt những ngày hội được mở ra
trong truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống: “Sau ngày Tết Nguyên đán,
bản mở hội Lồng tồng. Ngày mười bốn tháng giêng hội ở Tả Choóng, ngày
mười sáu hội ở Tả Lung, mười tám hội Tả Chải... cứ thế hết cả tháng Giêng”
[65;196].
Do Đỗ Bích Thúy viết về đề tài miền núi nên ngôn từ và những sự việc có
thể xuất hiện nhiều lần trong nhiều truyện ngắn của chị. Nhưng điều đó không
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top