luckystar2979

New Member
Nhật kí trong tù chỉ là một tập nhật kí bằng thơ ghi lại vắn tắt sinh hoạt, ý nghĩ của người tù cho qua ngày tháng như chính lời của Bác. Nói đến nhật kí là nói tới một hình thức ghi chép hàng ngày, trước hết là cho chính mình, bởi thế, nó hồn nhiên, chân thật, không bịa đặt, sáng tạo…

Đã là nhật kí của một người tù thì không thể không ghi chép một sự thật đau khổ đắng cay của một cảnh ngộ tù tội, bị tước mất quyền sống, quyền tự do… bị xiềng xích, đày ải, giam cầm hành hạ đủ điều. Với Bác, ngồi tù là mất quyền chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc, khi mà nước nhà còn ở trong thời kì dầu sôi lửa bỏng… Bởi thế, bị mất tự do, Bác đau khổ hơn ai hết:

Xót mình giam hãm trong tù ngục 

Chưa được xông ra giữa trận tiền, và mất tự do, với Bác là nỗi cay đắng hơn mọi thứ cay đắng trên đời:

Trên đời ngàn vạn điều cay đắng 

Cay đắng bằng chi mất tự do.

Bác đã diễn tả nỗi khổ đau vô hạn ấy trong suốt cả tập thơ sáng tác trong hơn một năm trời sống trong cảnh phi nhân loại sinh hoạt của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Nhiều vần thơ trong Nhật kí trong tù thực sự thấm đẫm nước mắt: 

Ở tù năm trọn thân vô tội 

Hòa lệ thành thơ tả nỗi này.

Nỗi khổ đau vì mất tự do, mất quyền chịến đấu giành độc lập cho dân tộc nhiều lúc đã trở thành một căn bệnh tâm cảm:

Ngoại cảm trời Hoa cơn gió lạnh 

Nội thương đất Việt cảnh lầm than

Ở tù mắc bệnh càng đau khổ 

Đáng khóc mà ta cứ hát tràn.

Câu thơ Bản ưng thống khốc, khước cuồng ca trong nguyên tác nghe còn xót xa hơn cả tiếng khóc. Đó là một sự thật phũ phàng, đau khổ, cay đắng.

Nhưng có một sự khác, và điều này mới thật sự là một thật sự kì diệu, nên thơ: ở người tù bị đọa đày đau khổ vô hạn ấy vẫn có một trái tim tự do, một tâm hồn nghệ sĩ, một tinh thần lạc quan bay bổng… vượt lên trên cảnh ngộ tù đày để ngâm vịnh thơ ca, đắm say với thiên nhiên, chia bùi sẻ ngọt với mọi âm thanh, mọi cảnh ngộ của đời sống… Không có một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Đó là một tâm hồn ung dung thư thái, hoàn toàn tự do. Tâm hồn ấy, con người ấy, có lúc cảm giác mình như là khách tự do:

Trong lao tù cũ đón tù mới 

Trên trời mây tạnh điểm mây mưa

Mây mưa mây tạnh bay đi hết 

Còn lại trong tù khách tự do.

như là khách tiên:

Hai giờ ngục mở thông hơi 

Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do 

Tự do tiên khách trên trời

Biết chăng trong ngục có người khách tiên.

Hai sự thực ấy cùng tồn tại trong một con người, mâu thuẫn mà thống nhất, có thể lí giải được.

Trước hết, có thể lí giải bằng một lí do thật giản đơn: tâm hồn con người ta được tạo hóa sinh ra vốn vô cùng phong phú, đa dạng luôn biến động: lúc vui, lúc buồn, lúc bực dọc, lúc sảng khoái, lúc đau khổ lúc thảnh thơi khoan khoái… Đó là diễn biến thông thường của tâm trạng, của những trạng thái cảm xúc khác nhau. Sự diễn biến này có khi có những nguyên nhân có thể lí giải, cũng có khi chẳng biết vì sao. (Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn – Xuân Diệu). Riềng với Bác thì thật dễ hiểu: sống trong nhà tù bị nhốt giữa bốn bức tường kín mít, thỉnh thoảng cửa nhà tù mở ra để người tù được ngắm cảnh trời đất, mây mưa, mây tạnh… phút chốc ấy, con người cảm giác thật khoan khoái tự do. Nên Bác ví với khách tự do, khách tiên, cũng chẳng có gì lạ. 

Mặt khác, hai cụm từ khách tự do và khách tiên là cách nói, cách ví von hổm hỉnh mà ta vẫn thường gặp trong văn thơ Bác. Ngay trong Nhật kí trong tù, ta cũng bắt gặp bao nhiêu hình ảnh so sánh tương tự: tiếng leng keng của xiềng xích được ví như tiếng ngọc rung, dây trói được ví với tua vai quan võ, ghẻ được ví như hoa gấm, hành động gãi ghẻ được ví như gảy đàn: (Đầy mình đỏ tím như hoa gấm. Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn); muỗi được ví như máy bay (Muỗi lượn nghênh ngang tựa máy bay), ngục tù bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm (Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối, Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm)…

Đó là cách ví von so sánh mang đậm nét phong cách Bác: vui đùa, hóm hỉnh… Nhưng đằng sau phong cách này là vấn đề của nhân cách, của tư thế; dó là nhân cách của một bản lĩnh lớn, của người có ý chí, có khả năng làm chủ bản thân, làm chủ cảnh ngộ, vượt lên trên cảnh ngộ để có thể cười cợt với đau khổ, ngạo nghễ với lao lung. Đó là một biểu hiện của ý chí tự do của một trái tim tự do thực sự… Thứ tự do của một con người ý thức được cái qui luật, cái tất yếu (tự do là tất yếu được nhận thức), Bác đã biến nó trở thành thói quen, máu thịt, cảm hứng.



Dù bị cầm tù nhưng đôi lúc Bác vẫn tự nhận mình là khách tự do, khách tiên

Bìa ngoài của cuốn nhật kí là một hình vẽ hai tay bị xiềng, bên cạnh là một bài thơ được xem như là một lời đề từ của tập Nhật kí trong tù:

Thân thể ở trong lao 

Tinh thần ở ngoài lao 

Muốn nên sự nghiệp lớn 

Tinh thần càng phải cao.

Đó là lời đề từ, cũng là một tuyên ngôn về ý chí và lẽ sống, chi phối cảm hứng sáng tạo của tập thơ và đem lại cho tập thơ một phong vị đặc biệt, một cảm hứng lãng mạn, bay bổng, tự do. Ý nghĩa của các từ khách tự do, khách tiên được Bác nói tới chủ yếu là mang nội dung này. Khách tiên còn gợi về một hình ảnh cao đẹp, huyền bí về một nhân vật huyền thoại từ ở trên cao ghé xuống để giúp đỡ, an ủi con người, giúp con người chống lại điều ác, điều xấu, thực hiện ước mơ, đem lại bình yên. Thì Bác chẩng phải là một nhân vật có nhiều nét gần gũi với hình ảnh huyền thoại đó sao! Tuy nhiên, ví mình như khách tiên, khách tự do trong nhà tù cũng là cách Bác gởi gắm khát vọng tự do như một nỗi niềm canh cánh từ đầu tập Nhật kí trong tù cho tới trang cuối cùng.

Bài Khai quyển (mở đầu tập Nhật kí;) Bác viết:

Ngâm thơ ta vốn không ham 

Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây 

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây 

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.

Bản thân hành động ngâm ngợi ấy cũng là biểu hiện của một tâm hồn tự do, vượt trên cảnh ngộ của nhà nghệ sĩ. Có phải ai cùng có thể ngâm ngợi trong cảnh nhà tù tội được đâu, nhất là trong các địa ngục trần gian của nhà tù Tưởng Giới Thạch mà Bác đã ghi lại chân thực trong bài Tứ cá nguyệt liễu (Bốn tháng rồi). Phong cách của Bác làm ta nhớ đến câu danh ngôn: “Trong một nhà tù có hai người tù đứng vịn tay vào song sắt, một người chỉ thấy bốn bức tường trơ trọi, còn một người ngửa mặt lên trời ngắm những vì sao”.

Đấy là chưa kể đến những bài thơ đạt đến trình độ điêu luyện có thể xếp bên cạnh những bài thơ Đường hay nhất:

Gió sắc tựa gươm mài đá núi 

Rét như dùi nhọn chích cành cây 

Chùa xa chuông giục người nhanh bước 

Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay.

(Hoàng hôn)

Thật khó mà hình dung được những vần thơ như thế lại là của một người tù sáng tác trong cảnh bị xiềng xích, đày ải.

Ngay cả khi Bác có nói tới sự đày ải khủng khiếp, người đọc cũng thật là ngạc nhiên bởi chính ngay trong cảnh ấy Bác vẫn thả hồn với sự sống xung quanh với những cảm xúc thật thanh thoát, êm ái, bay bổng:

Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh 

Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình 

Làng xóm ven sông đông đúc thế 

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.

Và bao nhiêu bài thơ khác được làm trên đường đi đày mà có cảm giác như thơ của một kẻ nhàn du đi thưởng ngoạn cảnh đẹp. Không có một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn, một khát vọng tự do bay bổng, một niềm tin ở tương lai thì không thể có được những vần thơ đẹp đẽ như thế.

Chính điều này đã tiếp thêm sức mạnh, nghị lực giúp Bác chiến thắng tất cả: giam cầm, đày ải, xiềng xích, đói khát, ghẻ lở, bệnh tật… trên chặng đường dài đau khổ nhất mà Bác phải trải qua.

Đúng là nhà tù, bạo lực chỉ có thể giam cầm thân thể Bác, còn tinh thần Bác, trái tim tự do của Bác thì vẫn ở ngoài lao, không thể giam hãm được.

Bác là một người tù khổ đau vô hạn vì mất tự do. Nhưng đồng thời, Bác là một chiến sĩ, một nghệ sĩ, một nhà thơ lớn vẫn tìm thấy nguồn hạnh phúc của một thứ tự do nội tại, mạnh mẽ, lớn lao và đẹp đẽ vô vàn, đứng trên đau khổ và chiến thắng đau khổ.
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top