tranmainhatk5

New Member
THUYẾT MINH VỀ CHIẾC NÓN LÁ - THUYẾT MINH VỀ CHIẾC NÓN LÁ VIỆT NAM





Trong bài thơ Bài thơ đan nón, Nguyễn Khoa Điềm đã có những lời mời thật đáng yêu:



Sao anh không về thăm quê em,

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên.

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón,

Mười sáu vành mười sáu trăng lên.



Những câu thơ thật đẹp, gợi nhắc đến một nét văn hoá độc đáo của Việt Nam: Chiếc nón lá.



Nón lá có từ rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 năm đến 3500 năm về trước.



Từ xưa, nghề làm nón đã rất phổ biến ở Việt Nam. Những cái tên như nón Gò Găng, nón Tây Hồ, nón Truồi, nón Phú Cam, nón La Sơn, nón làng Chuông... đã trở nên khá thân thiết trong lòng người Việt Nam.



Chiếc nón lá cũng có nhiều kiểu, nhiều vẻ như: nón quai thao, nón dấu, nón bài thơ, nón cời, nón gõ, nón lá sen...Vật liệu dùng làm nón lấy từ nguồn sản phẩm của núi rừng như tre, trúc, lá nón. Việt Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên, U Minh... là nguồn vô tận về lá nón. Lá cọ, lá kè cũng dùng để làm nón.



Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre cho thật tròn và óng chuốt rồi uốn thành 16 nan vành một cách công phu, sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì nức vành và ủi lá. 16 vòng nan tre xếp tròn đường kính từ nhỏ xíu trên đỉnh nón rồi lớn dần theo vành nón. Nói về lá, để có được lá đẹp, người thợ thường phải chọn lá có màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lớp lá, người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có dáng thanh, nhẹ. Sau đó, họ dùng những sợi cước mảnh để may những lá nón lại. Thao tác này đòi hỏi sự công phu, tỉ mỉ thì nón mới không bị thô.



Chiếc nón đem đến cái duyên dáng, dịu dàng cho người phụ nữ. Bởi vậy mà yêu cầu về tính thẩm mĩ của chiếc nón lá ngày một cao hơn. Vành nón chuốt nhỏ hơn, lá non được sấy trắng hơn, những sợi cước trắng được dùng làm chỉ khâu thay cho những sợi móc đen ngày trước. Khi nón chằm hoàn tất, người thợ không quên đính thêm vào chóp nón một cái "xoài" bằng chỉ bóng láng để tạo thêm một nét duyên rồi quét thêm nhiều lớp dầu rái bên ngoài, đem phơi nắng để nón có độ bền đẹp.



Vào những thập niên 60 của thế kỉ trước, ông Bùi Quang Bặc - một nghệ nhân làm nón ở Tây Hồ và cũng là một người yêu thơ phú - đã nghĩa ra cách lồng các câu thơ vào giữa hai lớp lá để tăng thêm giá trị tinh thần và vẻ đẹp của nón. Cũng từ đó tên gọi "Nón bài thơ xứ Huế" ra đời. Trên vành nón mỏng, người thợ tạc những bức tranh như chùa Thiên Mụ, cầu Tràng Tiên, những con đò trên dòng sông Hương Giang cùng với những nét chữ mềm mại, thật thơ...!



Nét đẹp và nét duyên của chiếc nón lá không thể không nói đến sự góp phần của quai nón. Rất nhiều chất liệu, sắc màu, người dùng có thể tuỳ theo lứa tuổi mà chọn lựa. Nón cho các thiếu nữ thì quai lụa thanh tao; nón cho các bà, các mẹ thì bằng vải hoa, vải nhung. Nón mảnh mai, quai êm dịu, cái duyên của người phụ nữ càng thêm đằm thắm.



Chiếc nón đã có mặt và song hành trong đời sống thường nhật của người Việt Nam. Nón là người bạn thuỷ chung của người nông dân chân lấm tay bùn trên ruộng cạn, ruộng sâu. Nón quai thao cùng các cô gái Kinh Bắc góp vui trong các lễ hội: hội Lim, hội chùa Dâu... Các cô thôn nữ làm duyên sau vành nón. Chiếc nón thanh nhẹ còn che chở cho đôi má các cô thêm xinh, thêm giòn. Hình ảnh các cô gái miền sông Hương núi Ngự trong chiếc áo dài thướt tha, dịu dàng, e lệ sau vành nón đã làm bao cậu khoá ngẩn ngơ:



Học trò trong Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế chân đi không đành.



Nón còn đi vào đời sống văn hoá nghệ thuật. Chiếc nón của thơ ca, nhạc, họa đẹp lên nhiều lần dưới cái nhìn của các nghệ sĩ. Đặc biệt, trong nghệ thuật múa, chiếc nón tạo nên một điểm nhấn rất ấn tượng. Có phải vậy không mà những bạn bè quốc tế cũng rất yêu chiếc nón lá Việt Nam. Khi đến đất nước này, không ai mà không muốn có một chiếc nón lá để làm quà lưu niệm.



Ngày nay, ở các đô thị, không thấy học sinh đội nón đến trường mà chỉ thấy những chiếc mũ đủ màu sắc. Nhưng ở trên những đường làng, trong các chợ quê, chiếc nón trắng vẫn nhiều và thấy ưa nhìn, dễ mến. Các bà, các mẹ, các cô thôn nữ... làm sao rời được chiếc nón quê hương.





Diễn Đàn Kiến Thức
- Chế bản từ .Các dạng bài tập làm văn lớp 8.



* Tham khảo thêm các bài viết "Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam" :



1. Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam



2. Thuyết minh về chiếc nón lá của người Việt



3. Thuyết minh về nón lá Việt Nam .
 

trongminh_ho

New Member
DÀN Ý: THUYẾT MINH VỀ CHIẾC NÓN LÁ



MB:



Cách 1:


- Chiếc nón lá rất thân thuộc với dân tộc ta

- Đi cùng tà áo dài, chiếc nón lá làm tăng thêm vẻ dịu dàng, duyên dáng cho người phụ nữ Việt Nam.



Cách 2:


“Sao anh không về thăm quê em

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”

( Bài thơ đan nón – Nguyễn Khoa Điềm)

Đã từ lâu chiếc nón lá đã đi vào nhiều bài thơ, bài ca Việt Nam và trở thành biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ thanh mảnh, nhẹ nhàng của chiếc nón bài thơ, cùng với tá áo dài bay trong gió đã làm tôn lên vẻ đẹp của người con gái.



Cách 3:


“Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ

Tà áo dài trắng nhẹ nhàng bay

Nón bài thơ e lệ trong tay

Thầm bước lặng, những khi trời dịu nắng”

Ai đã từng qua miền Trung nắng lửa không thể không biết đến nón bài thơ xứ Huế. Chiếc nón lá ấy đã trở thành biểu tượng văn hóa của một vùng đất nhiều truyền thống. Và cũng từ lâu, chiếc nón lá trở thành biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với chiếc nón lá nhẹ nhàng và tà áo dài tha thướt đã đi vào thơ ca, nhạc họa của biết bao thế hệ.



TB:



1/ Nguồn gốc:


Chiếc nón lá có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón lá đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch vào khoảng 2500 – 3000 năm trước công nguyên.



Từ xa xưa, nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại đến ngày nay. Ở Huế hiện nay có một số làng nghề chằm nón truyền thống như làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy) đặc biệt là làng nón Phủ Cam (Huế),..Những làng nghề này đã tạo ra các sản phẩm công phu cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch.



2/ Nguyên vật liệu, cách làm:




a/ Chọn lá, sấy lá, ủi lá:


Để làm được một chiếc nón lá đẹp, người làm nón phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá, phơi lá, chọn chỉ đến độ tinh xảo trong từng đường kim mũi chỉ. Lá có thể dùng lá dừa hay lá cọ.



- Lá dừa:
để có được lá dừa làm nón phải mua từ trong Nam. Lá chuyển về chỉ là lá thô. Để lá có độ bền về thời gian cũng như màu sắc phải chọn lọc, phân loại lá và đem xử lí qua lưu huỳnh. Dẫu chọn lá có công phu nhưng nón làm bằng lá dừa vẫn không thể tinh xảo và đẹp bằng nón làm bằng lá cọ.



- Lá cọ:
làm nón bằng lá cọ phải công phu hơn, lá phải non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá phải trắng xanh. Nếu lá trắng và gân lá cũng trắng thì lá đã già làm nón không đẹp. Một chiếc nón đạt tiêu chuẩn phải có màu trắng xanh với những gân lá vẫn còn màu xanh nhẹ, mặt lá phải bóng, khi nón đan lên phải nổi những gân lá màu xanh đẹp mắt. Để đạt được tiêu chuẩn ấy thì phải tuân thủ đúng qui trình. Sấy khô phải đúng kĩ thuật, sấy trên bếp than (không phơi nắng). Sau đó lại phải phơi sương tiếp từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm. Rồi dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá được phẳng. Mỗi chiếc lá đều được chọn lựa kĩ càng và cắt với cùng độ dài là 50cm (lá cọ).



b/ Chuốc vành, lên khung lá, xếp nón:


Với cây mác sắt, người thợ làm nón (thường là đàn ông làm ở khâu này) chuốt từng nan tre sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ nhỉnh hơn đường kính que tăm một chút. Sau đó uốn những nan tre này thành những vòng tròn thật tròn đều và bóng bẩy từ nhỏ đến lớn. Mỗi cái nón sẽ cần 16 nan tre uốn thành vòng tròn này đặt từ nhỏ đến lớn vào một cái khung bằng gỗ có hình chóp. Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung, người xếp lá phải khéo và đều tay không để các phiến lá chồng lên nhau hay xô lệch.



Kể về quá trình làm nón lá mà không kể đến nón bài thơ xứ Huế là một thiếu xót. Đặc biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng vì chỉ có hai lớp: lớp lá trong gồm 20 lá, lớp lá ngoài cùng gồm 30 lá và lớp bài thơ được đặt nằm ở giữa. Khi xây lá lợp lá, người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp hay xô lệch để nón đạt được sự thanh và mỏng. Khi soi lên ánh nắng, ta đọc được bài thơ, nhìn thấy rõ hình cầu Tràng Tiền hay chùa Thiên Mụ. Chính những chi tiết này đã tạo nên nét đặc trưng cho nón bài thơ xứ Huế.



c/ Chằm nón:


Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón. Nón được chằm bằng sợi nilông dẻo, dai, săn chắc và phải có màu trắng trong suốt. Các lá nón không được xộc xệch, đường kim mũi chỉ phải đều tăm tắp. Khi nón đã chằm hoàn tất người ta đính thêm vào chớp nón một cái “xoài” được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên cho chiếc nón. Sau đó mới phủ lên nón lớp dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền.



Ở vòng tròn lớn bằng nan tre dưới đáy hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ tư, người thợ sẽ dùng chỉ kết đối xứng hai bên để buộc quai. Quai nón thường được làm bằng lụa, the, nhung,...với màu sắc tươi tắn như tím, hồng đào, xanh thiên lí,..càng làm tăng thêm nét duyên cho người đội nón.

Chiếc nón đẹp không chỉ ở đường kim, mũi chỉ mà còn ở dáng nón. Chiếc nón còn đẹp bởi đây là sản phẩm đặc trưng mang nét văn hóa truyền thống được tạo nên bởi đôi tay khéo léo của những người thợ ở các làng nghề.



3/ Công dụng:



Từ làng Chuông ở Tây Hồ đến Ba Đồn những chiếc nón lá trải đi khắp nẻo đường và trở thành thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng thiết thân, người bạn thủy chung với người lao động dùng để đội đầu che mưa, che nắng khi ra đồng, đi chợ, là chiếc quạt xua đi những giọt mồ hôi dưới nắng hè gay gắt mà còn là vật làm duyên, tăng nét nữ tính của người phụ nữ. Buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ sinh với tà áo trăng tinh khôi, nghiêng nghiêng dưới vành nón lá là lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng, là cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ,...



Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.



4/ Bảo quản:


Muốn nón lá được bền lâu chỉ nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón.



KB:

- Chiếc nón lá là biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, là một sản phẩm truyền thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước.

- Nhiều người Việt xa nước, nơi đất khách quê người trông thấy hình ảnh chiếc nón lá họ có cảm giác quê hương đang hiện ra trước mắt.



Sưu tầm
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top