langdu_lukhach

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn

A. LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong các quan hệ xã hội, việc giao kết hợp đồng dân sự (HĐDS) diễn ra rất phổ biến. Việc giao kết hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các bên với nhau được pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi để các bên thực hiện HĐDS, hạn chế vi phạm và là cơ sở để giải quyết một cách nhanh chóng và chính xác khi có tranh chấp xảy ra.
Hiện nay, việc giao kết HĐDS được điều chỉnh chung bởi các quy định của BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005 (BLDS 2005). Các quy định trong bộ luật đã phát huy tác dụng tích cực trong thực tế, giúp các bên xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự với nhau một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, một số quy định về giao kết hợp đồng vẫn còn những bất cập, gây khó khăn trong quá trình thực hiện giao kết hợp đồng và khi giải quyết tranh chấp phát sinh. Để phân tích, làm rõ những quy định của BLDS 2005 về giao kết HĐDS, trên cơ sở đó, tìm ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành và định hướng một số giải pháp, dưới đây em xin nghiên cứu về đề tài: “Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIAO KẾT HĐDS.
1.1. Khái quát chung về HĐDS.
Các vấn đề cơ bản về HĐDS được điều chỉnh bởi các quy phạm trong BLDS 2005. Điều 388 BLDS 2005 đưa ra khái niệm về HĐDS như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Khái niệm này nhìn chung giống như khái niệm được quy định tại Điều 394 BLDS 1995. HĐDS là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định nên hành vi này mang tính ý chí của chủ thể tham gia hợp đồng với những mục đích nhất định. HĐDS là hình thức pháp lý quan trọng và phổ biến nhất thể hiện bản chất của giao dịch dân sự liên quan đến tài sản; bản chất của HĐDS là sự thỏa thuận về ý chí của các bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. HĐDS có hai đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất: HĐDS là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể dân sự, sự thỏa thuận này phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định (lời nói, văn bản, hành vi, …) và đây cũng là đặc điểm để phân biệt HĐDS với hành vi pháp lý đơn phương.
Thứ hai: Mục đích của hợp đồng là nhằm làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật. Điều này thể hiện HĐDS là hành vi có ý thức và mục đích của chủ thể; mục đích của HĐDS phải không được trái với quy định của pháp luật cũng như đạo đức xã hội – Đây là một trong những điều kiện để HĐDS có hiệu lực.
1.2. Khái niệm giao kết HĐDS và bản chất của giao kết HĐDS.
Có nhiều quan niệm về thuật ngữ “ giao kết HĐDS”. Theo nghĩa hẹp, giao kết hợp đồng dân sự được hiểu nghĩa là một thời điểm mà tại đó, sự thống nhất ý chí giữa các bên làm hình thành HĐDS. Đây là quan điểm nhìn nhận về kết quả cuối cùng mà không quan tâm đến quá trình hình thành hợp đồng. Theo nghĩa rộng, giao kết hợp đồng dân sự là một quá trình hình thành quan hệ HĐDS với hai yếu tố chủ yếu là đề nghị giao kết hợp đồng (bày tỏ ý chí từ một bên) và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (sự ưng thuận của bên kia). Quan điểm khác lại cho rằng: “giao kết HĐDS là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc, trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự” (7, trang 107) thông qua những hình thức nhất định. Có nhiều quan điểm khác nhau về “giao kết HĐDS”, trong các văn bản pháp luật của nước ta hiện nay (kể cả BLDS 2005) cũng chưa có định nghĩa cụ thể về giao kết HĐDS. Nhưng tổng hợp các quan điểm trên, có thể khái quát: “Giao kết HĐDS là quá trình bày tỏ thống nhất ý chí giữa các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật quy định thừa nhận nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau” (8, trang 9)
Kết quả cuối cùng của quá trình giao kết HĐDS nói chung đều là thể hiện sự thỏa thuận, thống nhất ý chí để làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Như vậy, bản chất của giao kết HĐDS là quá trình bày tỏ ý chí của các bên chủ thể tham gia hoạt động nhằm thỏa thuận, thống nhất hình thức và nội dung của hợp đồng.
1.3 Các nguyên tắc giao kết HĐDS.
Tiếp nối hững quy định của các văn bản pháp luật trước về nguyên tắc giao kết HĐDS như: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, Pháp lệnh HĐDS 1991, BLDS 1995…, trong BLDS 2005, tại Điều 389 có quy định về nguyên tắc giao kết HĐDS:
“Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.”
Việc quy định rõ các nguyên tắc giao kết HĐDS có ý nghĩa rất quan trọng trong. Nó tạo cơ sở pháp lí trong suốt quá trình giao kết hợp đồng của các chủ thể và là một cơ sở để xác định HĐDS vô hiệu.
II. TRÌNH TỰ GIAO KẾT HĐDS THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH.
2.1. Đề nghị giao kết HĐDS
Để thỏa thuận và đi đến thống nhất ý chí giữa các bên trong một HĐDS cụ thể, về lẽ tự nhiên, đòi hỏi phải có quá trình một bên bày tỏ ý chí của mình hay còn gọi là đề nghị giao kết HĐDS. BLDS 2005 có quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. (khoản 1 Điều 390 BLDS 2005).
Về hình thức đề nghị giao kết HĐDS: Hình thức đề nghị giao kết HĐDS là sự thể hiện ý chí của bên đề nghị giao kết ra bên ngoài dưới dạng nhất định mà người khác có thể nhận biết được. BLDS 2005 không quy định về hình thức của đề nghị giao kết HĐDS nhưng có thể thấy việc giao kết này có thể được thể hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Có thể đề nghị giao kết được thực hiện bằng thỏa thuận trực tiếp thông qua điện thoại, gián tiếp qua thư mời, công văn… miễn là có thể biểu lộ được ý chí của mình để người kia nhận biết được.
Nội dung đề nghị giao kết HĐDS: Đề nghị giao kết HĐDS phải có nội dung rõ ràng để bên được đề nghị có thể hình dung ra được HĐDS sẽ được giao kết với nội dung thế nào, có thể tham gia giao kết HĐDS đó được hay không.
BLDS 2005 cũng chưa có quy định cụ thể về nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng về cơ bản, nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng cần có bốn yếu tố chính sau:
1, Đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết HĐDS. Ví dụ khi muốn bán tài sản thì cần thể hiện rõ nội dung mình muốn bán tài sản để bên kia có thể hiểu được .
2, Đề nghị giao kết hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu của loại HĐDS mà các bên muốn xác lập nhưng chưa phải là HĐDS. Nói cách khác, đề nghị giao kết hợp đồng có chứa các nội dung của hợp đồng trong tương lai.
3, Đề nghị giao kết HĐDS phải hướng tới một hay một vài chủ thể đã được xác định cụ thể. Đây là nội dung quan trọng giúp phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với một số hành vi tương tự như là mời chào hàng, báo giá, giới thiệu sản phẩm, trưng bày, quảng cáo…
4, Đề nghị giao kết hợp đồng có thể xác định thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị có thể được xác định rõ trong nội dung đề nghị giao kết HĐDS. Điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định tính hợp pháp của chấp nhận đề nghị giao kết cũng như trách nhiệm của các bên trong quá trình giao kết HĐDS.
BLDS 2005, khoản 2 Điều 390 có quy định về đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời và như vậy cũng thừa nhận trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng không nêu rõ thời hạn trả lời. Tuy nhiên, Bộ luật lại không quy định bắt buộc phải nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị đồng thời cũng không quy định về cách thức xác định thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp để nghị đó không nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận. Có thể nói đây là một thiếu sót của luật.
Vấn đề quan trọng khác cần bàn đến đó là việc xác định thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực. Đây là thời điểm bắt đầu phát sinh sự ràng buộc cũng như trách nhiệm các bên liên quan trong quá trình giao kết HĐDS. Điều 391 BLDS 2005 quy định về vấn đề này :
“1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:
a) Do bên đề nghị ấn định;
b) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó.
2. Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
a) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
b) Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;
c) Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các cách khác.”
Trong đề nghị giao kết HĐDS thì vấn đề thay đổi, rút lại, sửa đổi hay hủy bỏ đề nghị giao kết HĐDS cũng là một vấn đề thường thấy. BLDS 2005 có quy định các trường hợp thay đổi, rút lại, hủy bỏ, sửa đổi đề nghị giao kết hợp đồng như sau:
- Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây: Nếu bên được đề nghị giao kết nhận được thông báo về việc thay đổi hay rút lại đề nghị trước hay cùng với thời điểm nhận được đề nghị; điều kiện thay đổi hay rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hay rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh (Điều 392).
- Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi họ trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 393).
- Khi bên được đề nghị giao kết đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hay sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới (Điều 395).
BLDS cũng đã quy đinh về chấm dứt đề nghị giao kết HĐDS tại Điều 394 như sau:
“Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
2. Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
3. Khi thông báo về việc thay đổi hay rút lại đề nghị có hiệu lực;
4. Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực;
5. Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.”
Như vậy, những quy định về chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng đã khá đầy đủ nhưng thiết nghĩ, vẫn cần bổ sung một số trường hợp như các bên chết hay mất năng lực hành vi dân sự, mất tư cách pháp nhân trước thời điểm thời điểm bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị hay đối tượng của HĐDS dự kiến được giao kết không còn tồn tại do nguyên nhân bất khả kháng.
2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS.
Cùng với đề nghị giao kết hợp đồng thì chấp nhận giao kết HĐDS là một trong hai yếu tố không thể thiếu để hình thành quan hệ HĐDS. Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.” ( Điều 396 BLDS 2005). BLDS 2005 không quy định về hình thức chấp nhận đề nghị giao kết. Chấp nhận đề nghị giao kết cũng có rất nhiều hình thức tương tự như đề nghị giao kết miễn là có thể biểu lộ được ý chí của mình để bên đề nghị hiểu được về việc đồng ý với toàn bộ nội dung được nêu trong đề nghị giao kết của bên đề nghị giao kết HĐDS. Trong khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 có quy định: “Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”. Tuy nhiên, việc quy định như vậy cũng có bất cập khi mà sự “im lặng” đó có thể do bên được đề nghị chưa được biết thông tin là có đề nghị giao kết hợp đồng. Một vấn đề nữa là hình thức chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS không phụ thuộc vào hình thức đề nghị giao kết và hình thức HĐDS.
Cũng tương tự như hình thức thì nội dung chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cũng không được quy định cụ thể trong BLDS 2005 hay các văn bản khác. Nhưng về cơ bản, trên tinh thần quy định trong Điều 396 thì nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS thông thường phải đảm bảo hai yếu tố:
Thứ nhất, chấp nhận toàn bộ nội dung như đã nêu trong đề nghị giao kết HĐDS và không bỏ qua nội dung nào.
Thứ hai, không có bổ sung nội dung nào khác so với đề nghị giao kết HĐDS.
Nội dung mà bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời mà không thỏa mãn hai yếu tố nào trên sẽ được gọi là đưa ra đề nghị mới hay không chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS. Về thời hạn chấp nhận đề nghị giao kết. Điều 397 BLDS 2005 quy định như sau:
“1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
5. Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.”, cần bổ sung thêm một số trường hợp như: Trường hợp một trong hai bên chết, mất năng lực hành vi dân sự trước khi bên được đề nghị chấp nhận; trường hợp đối tượng của HĐDS dự kiến được giao kết không tồn tại nữa do nguyên nhân bất khả kháng. Các trường hợp này được bổ sung sẽ làm cho quy định của pháp luật phù hợp hơn với thực tế, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Thứ năm, về thời hạn trả lời, khoản 1 Điều 397 BLDS 2005 quy định: “Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời”. Quy định như vậy là không rõ ràng, vừa theo “thuyết tống phát”, vừa theo “ thuyết tiếp nhận”. Vì vậy, BLDS cần quy định thống nhất về vấn đề này.
Thứ sáu, về nguyên tắc xác định địa điểm giao kết hợp đồng. Điều 403 BLDS 2005 quy định: “Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hay trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng”. Quy định này có những điểm không hợp lí khi giao kết hợp đồng trực tiếp. Vì vậy, cần bổ sung quy định này theo hướng trước hết phải là nơi trực tiếp giao kết hợp đồng, sau đó mới xét đến các địa điểm khác. Không thể đặt sự thỏa thuận lên quá cao trong trường hợp này mà trước hết phải đề cao thực tế.
Thứ bảy, cần quy định cụ thể nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng. Theo đó, các bên có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác trong quá trình giao kết hợp đồng . Cũng cần quy định thêm nghĩa vụ thông báo của bên đề nghị giao kết đối với bên được giao kết khi đã hết thời hạn mà bên được đề nghị vẫn không nhận được trả lời chấp nhận, đồng thời cũng với sự phát triển của công nghệ thông tin như ngày nay, một số trường hợp quan trọng đặc biệt thì cần quy định phải có sự liên lạc từ trực tiếp giữa hai bên trước khi gửi đề nghị giao kết hay gửi trả lời chấp nhận đề nghị giao kết.
Thứ tám, bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm dân sự của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng. Trong BLDS, cần quy định thêm trách nhiệm dân sự trong quá trình giao kết hợp đồng vào trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vì thiệt hại xảy ra trước khi hợp đồng được kí kết.
A. KẾT LUẬN ĐỀ TÀI
Pháp luật về giao kết hợp đồng dâ sự có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho và là tiền đề để các chủ thể xác lập quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ hợp đồng. Vì thế, việc pháp luật quy định đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp với thực tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể xác lập quan hệ hợp đồng. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói chung, pháp luật về giao kết hợp đồng nói riêng là một vấn đề thiết thực và có tác dụng tích cực giúp đáp ứng được yêu cầu của giao lưu dân sự, kinh tế trong giai đoạn hiện nay cũng như thời gian tới. Hi vọng những ý kiến rất nhỏ bé và còn non nớt về kiến thức trong tiểu luận này của em cũng sẽ có ích đối với việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng nói chung trong thời gian tới và cũng hi vọng, với sự nghiên cứu kĩ lưỡng của các cấp, các ngành có trách nhiệm, pháp luật về giao kết hợp đồng sẽ tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa.
Với kiến thức còn hạn chế, trong đề tài chắc chắn sẽ còn những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để em có thể hoàn thiện hơn nữa hiểu biết của mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Dân sự 1995;
2. Bộ Luật Dân sự 2005;
3. Công ước Vienna 1980;
4. Luật Chứng khoán 2005;
5. Luật Kinh doang bất động sản 2006;
6. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản;
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb. CAND, Hà Nội, 2006;
8. Trần Kim Chi, “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về hợp đồng dân sự”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996;
9. Vũ Đức Lịch, “Một số vẫn đề cơ bản về giao kết hợp đồng dân sự”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010;
10. Viện khoa học pháp lí, Bộ tư pháp, Pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại - Những điểm tương đồng và khác biệt (tài liệu hội thảo khoa học năm 2005);
11. Nguyễn Mạnh Bách, Pháp luật về hợp đồng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995 ;
12. Website :










MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIAO KẾT HĐDS. 1
1.1. Khái quát chung về HĐDS. 1
1.2. Khái niệm giao kết HĐDS và bản chất của giao kết HĐDS. 2
1.3 Các nguyên tắc giao kết HĐDS. 3
II. TRÌNH TỰ GIAO KẾT HĐDS THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH. 3
2.1. Đề nghị giao kết HĐDS 3
2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS. 6
2. 3. Địa điểm, thời điểm giao kết HĐDS 9
2. 4. Hiệu lực của HĐDS 10
III. TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HĐDS. 10
3.1. Trách nhiệm dân sự của bên giao kết HĐDS. 10
3.2. Trách nhiệm dân sự của bên được đề nghị giao kết HĐDS 11
3.3. Trách nhiệm dân sự của chủ thể khác trong quá trình giao kết HĐDS. 11
IV. GIAO KẾT HĐDS TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT. 11
4.1. Giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử. 11
4.2. Giao kết HĐDS bằng hành vi cụ thể. 13
4.3. Giao kết HĐDS thông qua các tổ chức trung gian. 14
4.4. Giao kết hợp đồng mua bán sau khi dùng thử. 15
V. VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HĐDS TRONG THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HĐDS TRONG THỜI GIAN TỚI. 15
5.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật và hạn chế của pháp luật Việt Nam về giao kết HĐDS. 15
5.1.1. Về nguyên tắc giao kết HĐDS. 15
5.1.2. Về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng bằng văn bản. 16
5.1.3. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS. 16
5.1.4. Việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng khi các bên ở các nước mà pháp luật theo các thuyết khác nhau. 17
5.2. Một vài kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về giao kết hợp đồng. 17
C. KẾT LUẬN ĐỀ TÀI 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………21

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top