Download miễn phí Lịch sử các phát minh Vật Lý





Cân treo (khoảng 3500 tr. CN)
Khoảng 3500 trước CN, để cân lúa mì hay vàng, người Ai Cập đã sử dụng
cân hai đĩa treo trên một tay đòn.
Cân thiên bình (thế kỷ X tr. CN)
Loại cân này có hai tay đòn không đều do người Trung Quốc phát minh ra
vào thế kỷ X trước CN, được những dân du mục cưỡi ngựa mang đến phương Tây
khoảng gần trước khi chúa Giêsu ra đời. Hiện nó vẫn đang được sử dụng.
Cân Roberval (1670)
Năm 1670, nhà toán học, vật lý và cơ học Pháp G. P. de Roberval (1602-1675)
đã giới thiệu một trong những phát minh của mình với Viện hàn lâm Khoa học
Paris. Đó là cái cân hai đĩa được đỡ bởi một đòn cân và gắn với một đòn đỡ bởi hai
cọc cứng dẫn hướng cho chuyển động của chúng.
Một thời gian dài, cân Roberval là phổ biến nhất trong các loại cân thương
mại. Nó đã được thay thế bởi cân Roberval bán tự động rồi sau đó bởi cân điện tử.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Lịch sử các phát
minh Vật Lý
Lịch sử các phát minh vật
lý- P1
LỊCH SỬ CHUẨN HÓA
Cân và đo
Những đơn vị đo lường cổ thường được chuẩn hóa tùy theo địa phương và
thời đại. Theo truyền thuyết, ở nước Anh thời Trung Đại chúng được tính
theo kích thước cơ thể vua Anh thời ấy: đốt ngón tay (inch), độ dài từmũi
đến hết bàn tay (yard) – hay theo hoạt động di chuyển: bước chân (foot) và
khoảng cách tương đương với một giờ đi bộ (mile).Ở Trung Hoa thời cổ thì
có các đơn vị khác như thốn (đốt), xích (thước), trượng, lý (dặm), lượng
(lạng), cân, canh, khắc (giờ), v.v...Bội số của các đơn vị đo cũng khác nhau, nó có thể theo hệ đếm thập phânhay hệ 4, 7, 16, 20, 24, 60 v.v. nên tính toán và chuyển đổi rất phiền phức, gâythiệt hại kinh tế lớn.Ý tưởng thống nhất một đơn vị đo lường cơ bản là do nhà bác học Anh JohnWilkins đề ra đầu tiên trong một tác phẩm xuất bản năm 1668 (hình trên). Năm1675, nhà bác học Ý Tito Livio Burattini gọi nó là mét và định nghĩa bằng một mẫuchuẩn (nay đo được khoảng 993,9 mm).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
Sau một thời gian dài giao thương các sản phẩm công nghiệp cùng sự pháttriển khoa học và kỹ thuật, nhiều chính quyền thấy phải áp đặt trong thực tiễn mộthệ thống đo lường chuẩn hóa chặt chẽ. Với sự thiết lập hệmét-thập phân ở nướcPháp cách mạng tư sản thì châu Âu mới chấm dứt dần dần tình trạng đo lộn xộn.Hệ này được Vương quốc Hà Lan dùng từ 1816 nhưng ngay tại Pháp thì bị bãi bỏnăm 1812 khi Napoleon đổ và chỉ tái lập sau khởi nghĩa Paris 1830.
Hệmét (1795)
Ở Pháp, nguyên tắc bắt buộc áp dụng các đơn vị đo đã được ấn định trongCông ước theo sắc lệnh ngày 18 tháng Nảy mầm năm thứ III của Nhà nước Cộnghòa, tức 7-4-1795. Sắc lệnh đó thiết lập hệmét, ấn định danh mục các đơn vị và lần
đầu tiên đã chính thức dùng định nghĩa 1 mét bằng 1/40 triệu độ dài kinh tuyếnTrái đất. Mặt khác lấy đơn vị khối lượng là kilogram.Ngày 22 tháng 6 năm 1799, những mẫu chuẩn đầu tiên của mét và kilogram
đã được đặt ở Viện lưu trữ quốc gia Pháp, tại Sèvres, gần Paris. Cũng năm đó, ởPháp, đạo luật ngày 19 tháng Giá rét năm VII (tức ngày 10-12-1799) quy định bắtbuộc áp dụng hệmét. Quá trình chuyển sang sử dụng hệmét trên thế giới tuynhiên đã tiến triển mất gần hai thế kỷ.
Hệ đơn vị quốc tế SI (1960)Năm 1832 nhà bác học Đức Gauss đưa ra hệ thống Gauss, rồi 30 năm sau, cácnhà vật lý Anh Maxwell et Thomson đưa ra hệ thống CGS, cả hai hệ này đều dựatrên 3 đơn vị cm, gram, giây. Năm 1946 hệ thống MKSA ra đời, dựa trên 3 đơn vịmét, kilogram, giây và thêm ampe. Năm 1954 thêm kenvin và canđela.Năm 1960, hệ đơn vị đo lường quốc tế SI (Système international d’unités,tức ISO 1000) đã xác định 6 đơn vị cơ bản trên, từ đó suy ra các đơn vị khác (thí dụvận tốc m/s, áp suất kg/m2). Năm 1971 thêm đơn vịmol và vì vậy hiện nay hệ SIbao gồm 7 đơn vị cơ bản ký hiệu là: m, kg, s, A, K, mol, cd. Cụ thể:
độ dài: mét (m);khối lượng: kilogram (kg);thời gian: giây (s);
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
cường độ dòng điện: ampe (A);nhiệt độ: kenvin (K, tương đương với °C tức độ Celsius, nhưng thang nhiệt kếkenvin xuất phát từ không độ tuyệt đối chứ không phải 0°C, 0°C = 276,16°K);lượng chất (mol);cường độ sáng canđela (cd).Các đơn vị đo lớn nhỏ hơn thì được thống nhất tính theo hệ thập phân (trừthời gian tính riêng theo hệ 60/24/7/365).Tại khối Ănglo-Xắcxông, tới năm 1980 nước Anh mới hoàn toàn chuyển đổixong sang hệ SI và cùng Canada, Nam Phi, New Zeland, Úc là 5 nước chuyển chậmnhất. Tuy nhiên những đơn vị truyền thống (ounce, karat, inch, galon...) vẫn đượcdùng phổ biến ởmột vài lĩnh vực riêng như kim loại đá quý, điện tử và bia, rượu,sữa v.v.
TĨNH HỌC VÀ CƠ HỌC
Tĩnh học (thế kỷ XVI-XVII)Nhà bác học xứ Flandre S. Stevin (1548-1620), tức Simon de Bruges, đượccoi là người sáng tạo ra môn tĩnh học thời nay. Tĩnh học là khoa học nghiên cứu sựcân bằng của các vật thể, cũng như các điều kiện tạo nên sự cân bằng đó. Thiên tài
đi trước Stevin là nhà bác học người Hy Lạp thời cổ đại Archimède.
Trọng tâm (thế kỷ II tr. CN)Archimède sinh ra ở Syracuse vào năm 287 trước CN, ông là người đầu tiên
đã xác định được trọng tâm của những vật rắn đồng chất có hình dạng xác địnhnhư hình trụ, hình cầu và hình nêm. Archimède đã phát triển khái niệm đó trongtác phẩm Sách về sự cân bằng. Ở đó, ông cũng đã trình bày một lý thuyết đòn bẩychặt chẽ nhất.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
Cân treo (khoảng 3500 tr. CN)Khoảng 3500 trước CN, để cân lúa mì hay vàng, người Ai Cập đã sử dụngcân hai đĩa treo trên một tay đòn.
Cân thiên bình (thế kỷ X tr. CN)Loại cân này có hai tay đòn không đều do người Trung Quốc phát minh ravào thế kỷ X trước CN, được những dân du mục cưỡi ngựa mang đến phương Tâykhoảng gần trước khi chúa Giêsu ra đời. Hiện nó vẫn đang được sử dụng.
Cân Roberval (1670)Năm 1670, nhà toán học, vật lý và cơ học Pháp G. P. de Roberval (1602-1675)
đã giới thiệu một trong những phát minh của mình với Viện hàn lâm Khoa họcParis. Đó là cái cân hai đĩa được đỡ bởi một đòn cân và gắn với một đòn đỡ bởi haicọc cứng dẫn hướng cho chuyển động của chúng.Một thời gian dài, cân Roberval là phổ biến nhất trong các loại cân thươngmại. Nó đã được thay thế bởi cân Roberval bán tự động rồi sau đó bởi cân điện tử.
Cân nhanh nhất trên thế giới (1988)Do tổ chức Pháp Saviphar hiệu chỉnh, loại cân này, được gọi là Regulator II,là một hệ thống đo lường mới có gắn với máy tính cho phép cân được hơn hai trămlần trong một phút. Vậy nên nó là loại cân nhanh nhất trên thế giới, có thể sử dụngtrong nhiều lĩnh vực cần chính xác như trong công nghiệp dược hay công nghiệp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
chất nổ. Nhờ lắp máy vi tính và lực kế điện tử tự động nên độ chính xác của cânvào cỡ 1/10.000.
Thủy tĩnh học (Hydrostatics)
Nguyên lý ArchimèdeArchimède (287-212 tr. CN) là người đầu tiên đã phát biểu nguyên lý vật nổimang tên ông: toàn bộ vật nhúng trong một chất lưu (lỏng hay khí) ở cân bằngtrong đó sẽ chịu một lực đẩy thẳng đứng, hướng từ dưới lên trên, bằng trọnglượng của chất lưu bị vật chiếm chỗ và đặt tại trọng tâm phần chất lưu bị chiếmchỗ.
Ơreka!Ta biết rằng sau khi tìm ra nguyên lý mang tên ông, Archimède đã thốt lên
“Ơreka!” (Tìm thấy rồi!) và chạy ra khỏi buồng tắm quên mặc quần. Những tìnhtiết khác quanh khám phá đó được biết đến ít hơn: người ta kể rằng tên bạo chúathành Syracuse, Hiéron II, một kẻ bản tính đa nghi, đã giao vàng ròng cho mộtngười thợ kim hoàn để đúc và chạm một chiếc vương miện. Archimède đã đượcgiao nhiệm vụ kiểm tra công việc của người thợ thủ công đó. Lúc bây giờ ông đã cóý nhấn chìm vào trong một cái chậu đầy ắp nước trước hết là vương miện, rồi sau
đó là vàng và bạc cùng trọng lượng như trọng lượng của vương miện. Người ta kểrằng sau mỗi lần nhúng như thế ông lại cân nước trào ra.Cuối cùng ông đã phát hiện ra con số của lần cân đầu nằm giữa các con sốcủa hai lần ...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top