Mead

New Member

Download miễn phí Luận văn Theo dõi hàm lượng hoạt chất diterpenoit trong cây Khổ sâm cho lá ( Croton tonkinensis Gagnep.,) họ Euphorbiaceae





Cho đến nay đã biết 13 ent -kauran ditecpen từ cây Khổ sâm (Croton
tonkinensis) hầu hết chúng là chất mới thuộc dẫn xuất hydroxy của bộ khung
ent -kauran-16-ent -15-on.
Theo qui tắc IUPAC, chúng tôi đề nghị gọi tên các ent -kauran này là
crotonkin kèm theo thứ tự phân lập (bảng 3.1), cấu trúc hoá học và một vài
đặc tính vật lý của chúng (bảng 3.2).



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

tionary and
Mobile phase Liquid <400 bar <400 l
1 ml/min
light detector <1000 C
Mobile
phase
Pump Injector
Data
evaluation
Detector Column
Oven
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
cực. Vật liệu thường dùng là các hạt silica được biến tính hóa học thông qua
phản ứng của nhóm silanol với các nhóm chức khách nhau và thường là:
Octa -Si-(CH2)7CH3 C8
Octadecyl -Si-(CH2)17CH3 C18
Phenyl -Si-(C6H5)2 C6H5
Cyanopropyl -Si-(CH2)3CN CN
Aminopropyl -Si-(CH2)3NH2 NH2
- Cột trao đổi ion: sự phân tách dựa trên tương tác tĩnh điện giữa các
phân tử chất tan mang điện tích với pha tĩnh. Vật liệu để nhồi cột là nhựa trao
đổi ion (cationit hay anionit) dùng làm pha tĩnh.
- Cột sắc ký gel (size exclusion) : pha tĩnh là các hạt polime có các lỗ
hổng khác nhau. Sự phân tách được thực hiện là nhờ sự khuyếch tán của phân
tử chất tan vào pha tĩnh, các phân tử có kích thước nhỏ dễ dàng vượt qua pha
tĩnh và bị rửa giải chậm hơn các phân tử có kích thước lớn.
Vì yêu cầu phân tách, vật liệu nhồi cột dùng làm pha tĩnh trong HPLC
thường dùng là các hạt có kích thước nằm trong khoảng 5 đến 10 m có dạng
hình cầu hay bất kỳ và cột thường dùng là thép không gỉ, có đường kính
trung bình vào khoảng 2 đến 5mm, chiều cao dài 50 - 300mm. Một cách lý
tưởng, nhiệt độ của pha động và cột phải giữ ổn định trong suốt quá trình
phân tách. Cũng như vậy, nhiệt độ của pha động thoát ra khỏi cột cũng phải
tương đương với nhiệt độ của đầu dò.
Khi cột đã được lựa chọn thì thành công của việc phân tách tuỳ từng trường hợp
vào thành phần pha động, đặc biệt là trong trường hợp sắc ký đẳng dòng.
Trong cột tách luôn luôn xảy ra sự cạnh tranh giữa độ tan của chất tan
trong pha động và tương tác vật lý của nó với bề mặt của pha tĩnh. Nếu như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
mẫu tan tốt trong pha động thì nó sẽ rửa giải sớm và trong trường hợp không
có tương tác với pha tĩnh thì nó sẽ ra khỏi cột với tốc độ bằng tốc độ của pha
động. “Độ mạnh” của pha động có thể được điều chỉnh bằng cách thay thế tỷ
lệ dung môi đã sử dụng. Pha động càng “mạnh” thì mẫu sẽ được rửa giải càng
sớm.
Với cột pha thường, do bề mặt phân cực nên độ mạnh của pha động
đồng nghĩa với độ phân cực của dung môi. Độ mạnh của dung môi theo thứ tự
tăng dần của độ phân cực trình bày như sau:
Hexane = heptane = pentane < cyclo hexane < chloroform < toluen <
dichloro methane < ethylacetate = THF < diethylete < acetone = acetonitrile <
ethanol < H2O Trong sắc ký lỏng pha ngược bề mặt của vật liệu nhồi cột không phân
cực và nước hay dung dịch nước có thể dùng làm pha động. Độ mạnh của
pha động tăng dần khi độ phân cực của dung môi giảm dần (nghĩa là trật tự
ngược với trường hợp pha thường). Pha động yếu nhất là nước sạch,
acetonitryle hay THF là các pha động rất mạnh.
Detector UV-VIS là loại detector hay được dùng vì nó có khả năng ứng
dụng rộng rãi và giá thành rẻ hơn các loại detector khác, nó có độ nhạy trung
bình, tín hiệu không ảnh hưởng bởi nhiệt độ và áp suất. Tuy nhiên, detector
UV-VIS chỉ sử dụng được khi mẫu có hấp thụ ánh sáng trong vùng 200 -
700nm.
Detector chỉ số khúc xạ (RID) là một loại detector phổ thông, dựa trên
khả năng phân biệt sự thay đổi chỉ số khúc xạ, có độ nhạy cảm với nhiệt độ và
áp suất cũng như khí bị hoà tan trong pha động, nên độ nhạy phân tích không
cao.
Ngoài hai loại detector trên người ta còn sử dụng detector huỳnh quang,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
detector điện hoá, detector độ dẫn ... trong sắc ký lỏng cao áp.
1.4.2. Phương pháp sắc ký lỏng ghép khối phổ (LC/MS).
Mẫu được bơm tự động qua cột LC (pha lệch) dưới áp cao và dung môi
rửa giải thích hợp. Sau đó các thành phần tách qua cột được phát hiện bằng
đầu dò detector UV. Từng thành phần được đưa thứ tự vào buồng ion hóa
(ESI – Electron Spray Ionization). Các ion tạo thành qua bộ phận phân tích
đến Detector, các tín hiệu được chuyển qua dạng tín hiệu điện từ, qua bộ phận
lọc và khuyếch đại cho các phổ khối lượng của từng phần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
CHƢƠNG 2. PHẦN THỰC NGHIỆM
Cây Khổ sâm cho lá (Croton tonkinensis) thuộc loại thực vật đặc hữu
của Việt Nam là cây thuốc dân gian, chữa được một số bệnh phổ biến, những
hiểu biết về thành phần hóa học và dược lý của cây cho biết có tác dụng
chống viêm, chống ung thư và chống suy giảm miễn dịch có hiệu lực [10].
Nhiệm vụ của bản luận văn này là chiết xuất phân lập một số ent -
kauran ditecpen của cây Khổ sâm cho lá và theo dõi sự biến đổi hàm lượng
ent -kauran ditecpenoit chính ở một số thời gian sinh trưởng của cây trong
năm.
2.1. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1.1. Thu mẫu cây, xác định tên khoa học và phương pháp xử lý mẫu
Nguyên liệu để nghiên cứu là mẫu cành và lá khô. Mẫu cành, lá tươi
được thu theo các tháng 1,3,4,5/2008 tại Tân Yên, Bắc Giang và các mẫu thu
ở các vùng Sóc Sơn, Ninh Bình, Phú Thọ, Hưng Yên. Các mẫu nói trên đã
được TS. Ninh Khắc Bản (Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh học, Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam) giám định là đồng nhất về mặt thực vật và định
danh là Croton tonkinensis Gagnep., họ Euphorbiaceae.
Ảnh 2.1: Hoa và quả cây Khổ sâm Ảnh 2.2: Lá và quả cây Khổ sâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Mẫu cây tươi lấy về được sấy ngay ở 110 C trong 10 phút để diệt men,
sau đó hong khô ở nơi thoáng mát, hay sấy ở nhiệt độ 50-60 C cho tới khi
khô giòn. Mẫu khô đem nghiền nhỏ, cho vào bình ngâm chiết với cloroform ở
nhiệt độ phòng cho đến khi nhạt màu.
Các dịch chiết được cất kiệt dung môi ở áp suất giảm để nguội, rồi đem
cân.
Việc phân lập các chất ra khỏi hỗn hợp của chúng được kết hợp những
phương pháp khác nhauV: dùng dung môi có độ phân cực tăng dần để phân ly
các chất có độ phân cực gần như nhau làm cho hỗn hợp ban đầu đơn giản hơn,
sau đó dùng cách kết tinh phân đoạn hay tách trên sắc ký cột, sắc ký bản
mỏng điều chế v.v...để được chất tinh khiết.
Quá trình nghiên cứu sẽ nêu chi tiết ở phần thực nghiệm.
2.1.2. Phương pháp phân tích, phân lập các hợp chất từ dịch chiết.
Để theo dõi sự biến động thành phần hoá học của cây C.tonkinensis thu
ở các thời điểm khác nhau đã dùng phương pháp bán định lượng bằng cách
cân trực tiếp các chất phân lập được từ khối lượng ngâm chiết.
Để phân tích và phân tách hỗn hợp các chất cũng như phân lập các hợp
chất cần sử dụng phối hợp các phương pháp sắc ký như:
- Sắc ký lớp mỏng (TLC)
- Sắc ký cột thường
- Sắc ký lỏng áp suất cao
2.1.3. Phương pháp khảo sát cấu trúc hoá học các chất
Các chất phân lập được ở dạng tinh khiết là đối tượng để khảo sát các
đặc trưng vật lý: màu sắc, mùi, dạng thù hình, R f, điểm nóng chảy, v.v.. khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
các chấ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top