Download miễn phí Tiểu luận Bình luận các biện pháp bình ổn tỷ giá ( liên hệ Việt Nam)





Giai đoạn trước 1990: Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tỷ giá cố định bất hợp lý, chế độ đa tỷ giá.
* Trước 1986: Chúng ta chủ yếu xác lập tỷ giá giữa VNĐ với Rúp Nga và với đồng Rúp chuyển nhượng (là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối SEV).
* 1986 – 1990: Bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì xuất hiện luồng ngoại tệ Đô la Mỹ (USD) vào ra Việt Nam. Cũng từ đó, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường USD đã bắt đầu bộc phát một cách mạnh mẽ từ các dòng kiều hối của kiều bào về nước, lượng lớn USD cất trữ từ khi giải phóng Miền Nam, và dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới. Mức tỷ giá hối đoái được hình thành và vận động theo những tín hiệu của quy luật thị trường và đã có một sự chênh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, đặc biệt là vào năm 1988 ( tỷ giá chính thức thấp hơn thị trường là 400%).
=> Điều này dẫn đến việc các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho Ngân hàng, các tổ chức thay mặt nước ngoài hay cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở Ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào sử dụng hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường.
Do đó, cơ chế tỷ giá thời kỳ này đã trở thành 1 yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường tự do.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

đồng nội tệ về. Điều này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng. Những hạn chế Tuy nhiên, cách làm này cũng có những hạn chế nhất định, bởi lẽ lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả.
Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định.
Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo ( hạ xuống chẳng hạn).
Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều.
Để minh hoạ vấn đề này, có thể sử dụng hai ví dụ điển hình trong lịch sử. Một là, trước thế chiến 2, Anh là một trong những nước điển hình về việc sử dụng lãi suất chiết khấu để can thiệp vào thị trường hối đoái và đã thu được nhiều kết quả đáng kể, do nền kinh tế và tiền tệ nước Anh lúc đó khá ổn định. Hai là, có thể lấy cuộc khủng hoảng USD thời kỳ 1971-1973 làm ví dụ. Tổng thống Mỹ Nixon, đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này, mặc dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần thị trường Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện chính sách lãi suất thấp, vì lúc đó USD đang đứng bên bờ của nguy cơ mất giá. Như vậy, chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước.
Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau, thì phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do vậy, hiện nay chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Đồng thời, can thiệp vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn) đủ mạnh, tự do và linh hoạt: tài khoản vốn đã được mở cửa.
Liên hệ ở Việt Nam
Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam) và tăng mức lãi suất của đồng nội tệ … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác, trong đó Ngân hàng Nhà nước đã quyết định giới hạn lãi suất tiền gửi bằng USD ở mức 1%, khi VND đang có lãi suất tiền gửi ở mức 10,49%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ. Chúng ta có thể thấy rõ hơn sự biến động của tỷ giá qua diễn biến lãi suất cơ bản từ đầu năm 2008 đến nay:
Diễn tiến lãi suất cơ bản  
Trước 1/2/2008
8,25%
Từ 1/2/2008 đến 19/5/2008
8,75%
Từ 19/5/2008 đến 11/6/2008
12%
Từ 11/6/2008 đến 21/10/2008
14%
Từ 21/10/2008 đến 5/11/2008
13%
Từ 5/11/2008 đến nay
12%
2. chính sách thương mại quốc tế
Thuế quan
Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu hay thuế xuất-nhập khẩu là tên gọi chung để gọi hai loại thuế trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Đó là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu.
Thuế quan cao làm hạn chế sự nhập khẩu ,nhập khẩu giảm làm cầu ngoại tệ giảm kết quả làm cho nội tệ lên giá.
khi thuế quan thấp sẽ có tác dụng ngược lại.
Hạn ngạch
Hạn ngạch hay hạn chế số lượng là quy định của một nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hay nhập từ một thị trường trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép
Tác dụng làm hạn chế nhập khẩu , cầu ngoại tệ giảm kết quả làm cho nội tệ lên giá . Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm tăng nhập khẩu làm cho cầu ngoại tệ tăng , đồng nội tệ giảm giá.
Giá cả
Thông qua hệ thống giá cả, Chinh phủ có thể trợ giá giúp cho các mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Kích thích xuất khẩu tăng làm cung ngoại tệ tăng, đồng nội tệ lên giá
Mặt khác, Chính phủ cũng có thể bù giá cho 1 số mặt hàng NK thiết yếu. kết quả là nhập khẩu tăng đồng nội tệ giảm giá
tác động vào sự chuyển dịch của luồng vốn
phá giá tiền tệ
1. Phá giá tiền tệ là gì ?
Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc phá giá đồng Việt Nam (VND) nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như USD,EUR… 2. Tác động của việc phá giá tiền tệ:
Trong ngắn hạn Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc Môn đại cương 0
T Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc :Luận văn ThS. Luận văn Kinh tế 0
D So sánh công ty cổ phần và công ty TNHH 2-50 thành viên, bình luận về thực trạng các công ty cổ phần Luận văn Kinh tế 0
T Bình luận hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy trong ASEAN dưới các góc độ sau cơ sở lí l Luận văn Luật 0
D Bình luận: Giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong các quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá và Văn hóa, Xã hội 0
M Quản lý dạy học các môn khoa học cơ bản tại Trường Đại học Hòa Bình : Luận văn ThS. Giáo dục học: 60 Luận văn Sư phạm 0
M Quản lý hoạt động dạy học môn Toán trong các trường trung học phổ thông tỉnh Thái Bình : Luận văn Th Luận văn Sư phạm 0
O Phân tích diễn ngôn phê phán về cách thể hiện cảm xúc bằng ngôn từ trong các bình luận bóng đá ở các Ngoại ngữ 0
T [Free] Phân tích các bài bình luận báo chí trên cơ sở lý thuyết lập luận Luận văn Kinh tế 2
B Thích tất cả các bài đăng và bình luận Facebook Giới thiệu phần mềm hay theo yêu cầu 1

Các chủ đề có liên quan khác

Top