Download miễn phí Tiểu luận Thực trạng sở hữu nhà nước và phương hướng giải quyết





Một giải pháp phổ biến và tương đối hiệu quả hiện nay trên khu vực và thế giới là tiến hành cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhắm đa dạng hoá sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện cổ phần hoá quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách biệt rõ ràng, sự can thiệp trực tiếp của chính quyền vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất, chấm dứt tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi “. Người lao động với tư cách cổ đông họ tham gia quyết định chiến lược phát triển của công ty, phân chia lãi và chịu thua lỗ dưới hình thức cổ phần mà họ đã góp. Vậy thì phải chăng cổ phần hoá sẽ được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp nhà nước ?
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ước chiếm một vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay không ít người vẫn còn nhầm tưởng sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước là một.
Sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó của cải tự nhiên được toàn dân sử dụng, các thành viên trong xã hội có quyền ngang nhau trong việc sử dụng của cải này.
Sở hữu nhà nước là một phần của sở hữu toàn dân (bao gồm những tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất nhất định...) được chuyển cho cơ quan nhà nước điều hành và sử dụng theo ý chí của nhân dân, theo quyết định của cơ quan quyền lực thay mặt cho nhân dân với những điều kiện nhất định.
Sở hữu tập thể là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu không phải là một các nhân cụ thể mà là một tập hợp người, một tập thể cùng sở hữu.
Sở hữu tư nhân là hình thức chiếm hữu trong đó những sản phẩm lao động rơi vào tay chủ thể và khác với sở hữu các nhân sở hữu tư nhân có quy mô lớn hơn nhiều.
1. Thực trạng sở hữu nhà nước
Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp nhà nước:
Sở hữu nhà nước và gắn liền với nó là khu vực kinh tế nhà nước luôn được Đảng và nhà nước ta xác định giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống sở hữu và trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực trạng sở hữu nhà nước hiện nay ra sao ? Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường như thế nào ? Và “ Cha chung “ có ai khóc hay không ?... Rất nhiều lời giải đáp cho những câu hỏi này thường xuyên được đăng trên các tạp trí chính trị, kinh tế khoảng chục năm trở lại đây. Sở dĩ như vậy là bởi vì những câu hỏi này rất nóng, rất thời sự . Tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này đồng nghĩa với việc xác định các doanh nghiệp nhà nước đang đứng ở đâu, đang có trong tay những gì và những doanh nghiệp này đang và sẽ phải đương đầu với những thách thức gì.
Trước đây, khi mà vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được hiểu là áp đảo về số lượng, về tỉ trọng thì mỗi một doanh nghiệp nhà nước ra đời là chúng ta lại tiến thêm một bước tới chủ nghĩa xã hội. Mỗi một doanh nghiệp nhà nước là một bông hoa góp phần tạo nên vẻ đẹp cho đất nước. Kết quả là vườn hoa đó có đến 12084 bông hoa lớn nhỏ, hết sức đa dạng phong phú, từ các doanh nghiệp cơ khí, luyện kim đến các doanh nghiệp cắt may, cắt tóc... tất cả đều thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp nay luôn thực hiện vượt mức kế hoạch và hình như điều đó cũng chỉ xẩy ra trên kế hoạch và giấy tờ mà thôi, lãi giả còn lỗ thật. Có lợi nhuận hay không, không quan trọng vì tất cả đã được nhà nước ru ngủ trong vòng tay “ êm ả “ của cơ chế bao cấp. Đó là thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước trước đổi mới còn sau đổi mới thì sao ?
Qua hơn mười năm thực hiện đổi mới, tính đến cuối tháng sáu năm 1998 cả nước chỉ còn 5700 doanh nghiệp nhà nước. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm nhanh chóng như vậy phải chăng kinh tế nhà nước không còn giữ vai trò chủ đạo nữa ? Câu trả lời ở đây là kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Chỉ có điều chủ đạo ở được hiểu là vai trò mở đường, dẫn dắt, là vai trò then chốt và phải có hiệu quả cao. Hay nói một cách ngắn gọn các doanh nghiệp nhà nước chuyển từ giữ chủ đạo về số lượng sang giử vai trò chủ đạo về chất lượng. Đây chính là một thành công bước đầu mà chúng ta đạt được. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đã được nâng lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của các doanh nghiệp nhà nước gần gấp rưỡi so với bình quân toàn nền kinh tế và gấp đôi so vứi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong thu nhập quốc dân tăng từ 32% năm 1990 lên 42% năm 1996. Các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mức đóng góp đó hoàn toàn chưa tương xứng với sự đầu tư, sự mong đợi của nhà nước và phần lớn có được là từ thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ có một phần rất nhỏ là từ thuế lợi nhuận. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn quá nhiều và bố trí không được hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn không cao. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn quá nhỏ bé, gần 40% tổng số các doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới một tỉ đồng. Hầu hết công nghệ kỹ thuật của các doanh nghiệp rất lạc hậu, các máy móc, thiêt bị phần lớn thuộc thập kỷ 60 thậm trí lâu hơn thế. Việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước còn rất nhiều yếu kém và không nhất quán. Hệ thống quản lý hành chính địa phương, trung ương và hệ thống quản lý các doanh nghiệp theo ngành không rõ ràng, chồng chéo lên nhau ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền tự chủ, khả năng quyết đoán trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp vẫn còn tiếp tục “say sưa “ với cơ chế bao cấp không có khả năng trụ lại trước sóng gió cạnh tranh và thử thách khắc nghiệt của thị trường. Cụ thể là 40% trong tổng số các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang ở trong tình trạng thua lỗ triền miên, “ ăn dần ” cả vốn. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn được tiếp tục duy trì bởi một số lý do đại loại như : các doanh nghiệp này đã trưởng thành cùng cách mạng, đã từng là con chim đầu đàn, có truyền thống lâu năm... Có nên vì những lý do trên mà để hàng nghìn người lao động tại các doanh nghiệp này dở mếu dở cười sống cầm chừng, để những kẻ cơ hội lợi dụng tham ô, tham nhũng hàng trăm tỉ đồng của nhà nước hay không ? Và liệu còn có lý do sâu xa nào đằng sau những lý do trên hay không ? Phải chăng một số người sợ thực hiện đổi mới cung cách làm ăn của các doanh nghiệp nhà nước bởi đổi mới sẽ động chạm đến quyền lợi cá nhân của họ, khi đó họ sẽ phải chia sẻ vai trò lãnh đạo thậm chí còn mất hẳn vai trò lãnh đạo của mình. Bên cạnh đó lại có quan điểm “áng binh bất động “ để khỏi phải va chạm, rủi ro... Những người lãnh đạo đầu tầu đã không hăng hái thì làm sao có thể kéo các toa tầu phía sau chuyển động, làm sao có thể thắng được sức ì của sự bảo thủ.
Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Phạm trù sở hữu nhà nước rộng hơn hẳn so với phạm trù kinh tế nhà nước. Sở hữu nhà nước còn có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng ( vốn góp của nhà nước chiếm một tỉ lệ khống chế hay không khống chế ). Ngày nay do sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và công nghệ chúng ta nhất định phải hiểu phạm trù sở hữu nhà nước một cách toàn diện, linh hoạt hơn. Sở hữu nhà nước không nhất thiết phải 100% vốn đầu tư của nhà nước mà nhà nước chỉ cần nắm giữ một tỉ lệ khống chế nhất định và sở hữu nhà nước không nên cố định cứng nhắc như hiện nay, doanh nghiệp này hôm nay thuộc ngành mũi nhọn, chiến lược đòi hỏi phải thuộc sở hữu nhà nước nhưng trong giai đoạn phát triển tiếp sau vai trò của nó có thể đã thay đổi và không nhất thiết phải thuộc sở hữu nhà nước 100% nữa. Vậy sẽ thật là thiếu sót nếu chúng ta bỏ qua sở hữu nhà...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
C Tìm Thực trạng và giải pháp về đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Tài liệu chưa phân loại 0
P Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở Công nghệ thông tin 0
N Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thịên công tác kế toán cho vay tại Sở Giao Dịch Ngân hàng thương m Luận văn Kinh tế 0
K Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Kạn và thực trạng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm gần đây Luận văn Kinh tế 2
0 Thực trạng thẩm định dự án đầu tư tại sở kế hoạch và đầu tư Ninh Bình Luận văn Kinh tế 0
N Thực trạng hoạt động Marketing của cơ sở II Phúc Thịnh Luận văn Kinh tế 0
T Thực trạng đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn huyện Gia Lâm đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- Hiện đại Luận văn Kinh tế 0
P Thực trạng và giải pháp đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà Luận văn Kinh tế 0
G Thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở trên địa bàn huyện Ph Luận văn Kinh tế 0
B Phân tích thực trạng lao động việc làm trong các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top