truc20061990

New Member

Download miễn phí Đề tài Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hàng thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua





MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .1 CHƯƠNG I: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG .3
1.1. Bối cảnh của việc Nhật Bản tăng cường chính sách quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu .3
1.2. Động cơ của việc Nhật tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chật lượng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam 6
1.3. Tác động của chính sách này .7
1.3.1. Tác động đối với Nhật .7
1.3.2. Tác động đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam .8
1.4. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia và phía Việt Nam .9
1.4.1. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia .9
1.4.2. Phản ứng từ phía Việt Nam .10
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG .12
2.1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản VN .12
2.2. Nguyên nhân của việc Nhật tăng cường kiểm soát. quản lý chất lượng thuỷ sản Việt Nam .13
CHƯƠNG III: BÀI HỌC RÚT RA, ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP .17
3.1. Bài học kinh nghiệm từ nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thuỷ sản.17
3.2. Đề xuất các giải pháp. 18
3.2.1. Giải pháp từ phía cơ quan quản lý Nhà nước .18
3.2.2. Giải pháp từ các doanh nghiệp xuất khẩu, cơ sở chế biến, người nuôi và đánh bắt .19
KẾT LUẬN .20
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ấn sản phẩm thuỷ hải sản trị giá 240 triệu USD. Nếu tính so với cùng kỳ năm ngoái thì giá trị xuất khẩu giảm gần 20%. Trong 6 tháng đầu năm 2007Việt Nam xuất khoảng 6000 lô hàng thuỷ sản sang Nhật, trong đó có 94 lô bị phía Nhật cảnh cáo có dư lượng kháng sinh (chiếm 1,6%). Các sản phẩm này chủ yếu nhiễm CAP (55 lô), AOZ (17 lô), SEM (6 lô), COLIFORM (7 lô), SUNFUARADIOXIDE (2 lô). Đã có 48 doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo, trong đó có 2 Công ty bị phát hiện trên 4 lô, 10 Công ty 3 lô, 3 Công ty 2 lô và 23 Công ty có 1 lô bị cảnh báo. Các nhóm hàng bị CAP là tôm biển cỡ nhỏ, mực ống, mực nang.
Tôm là mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật hàng năm giá trị xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật trên 500 triệu USD (chiếm 56,7%). Đến cuối năm 2006 tới nay thì tỷ lệ vi phạm của mặt hàng này cũng vượt ngưỡng 1,6%. Trong đó chất CAP chiếm 6,7%, tổng các lô hàng được kiểm tra tại cảng nhập khẩu của Nhật Đồng thời từ đầu năm tới nay cũng có nhiều lô hàng xuất khẩu tôm Việt Nam bị phía Nhật trả về. Đầu tháng 3 năm 2007 TOKYO đã thông báo trên mạng của Bộ Ytế lao động và phúc lợi của Nhật là có 2 lô hàng tôm sú nhập khẩu từ Việt Nam có hàm lượng chất AOZ quá mức cho phép. Trước đó cơ quan này đã công bố việc tìm thấy dư lượng CAP ở một số lô hàng mực nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc. Đồng thời cũng tìm thấy vi khuẩn Ecoli trong một số lô hàng tôm đông lạnh chiên sẵn từ Việt Nam. Điều đó cho thấy giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã giảm sút đáng kể.Việc Nhật Bản mất đi vị trí dẫn đầu trong nhập khẩu thuỷ Việt Nam là một sự thật đáng buồn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Thậm chí trongt hời gian tới nếu không có những chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp thuỷ sản chúng ta sẽ mất hẳn đi thị trường này. Nếu quả xảy ra thật thì “ đau quá” cho ngành thủy sản Việt Nam.
1.2. Động cơ của việc Nhật Bản tăng cường kiểm soát và quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam
Thứ nhất, Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ lớn về hàng thuỷ sản, song lại khá khó tính nên tiêu dùng những mặt hàng có ảnh hưởng không tốt tới sức khoẻ sẽ làm người tiêu dùng cảm giác bất an. Một nền kinh tế phát triển thì việc bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng là một điều cần thiết và cần được thực hiện một cách chặt chẽ. Không chỉ Chính phủ Nhật là các cơ quan lãnh đạo khác cũng muốn đảm bảo cho người tiêu dùng được sử dụng những sản phẩm có độ an toàn cao. Việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát và quản lý chặt đối với hàng thuỷ sản được nhập khẩu không chỉ đối với thuỷ sản Việt Nam và với nhiều quốc gia xuất khẩu vào thị trường này. Với những mặt hàng thuỷ sản không đảm bảo chất lượng đã và đang được phía Nhật trả lại, họ không muốn người tiêu dùng trong nước sử dụng những mặt hàng này.
Thứ hai, Qua việc siết chặt chính sách thương mại đối với hàng thuỷ sản nước ngoài họ mong muốn làm giảm áp lực cho các doanh nghiệp thuỷ sản trong nước . Rõ ràng cạnh tranh trên một thị trường có sức tự do cao là rất khốc liệt. Một khi không biết và nắm bắt tốt về những thị trường này tính khốc liệt sẽ làm cho bất kỳ doanh nghiệp nào thất bại. Siết chặt quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu, tăng cường kiểm tra chất lượng tại các cảng nhập sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản, có điều kiện về thời gian, về lực để tranh thủ chiếm chính thị trường trong nước của mình. Nhật là một quốc gia có đường biển dài bao quanh, có lượng tàu thuyền lưu thông lớn trên thế giới, do đó thuỷ sản ở Nhật cũng là một ngành khá phát triển. Khi có sự xâm nhập từ ngoài vào thì áp lực cạnh tranh sẽ tăng lên, điều đó cũng chứng minh việc Chính phủ Nhật mong muốn giảm bớt áp lực này cho các doanh nghiệp thủy sản trong nước của mình.
Thứ ba, Nhật Bản mong muốn qua chính sách này sẽ thông báo tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là họ chỉ cho phép các doanh nghiệp đủ điều kiện mới được hoạt động trên thị trường này. Phía Nhật sẵn sàng cấm nhập khẩu các hàng thuỷ sản đối với các doanh nghiệp vi phạm các tiêu chuẩn cho phép. Đây là điều cần để các doanh nghiệp Việt Nam lưu tâm, chú ý,và cũng thể hiện động cơ rõ ràng nhất để phía Nhật áp dụng chính sách thương mại này với thuỷ sản Việt Nam.
1.3. Tác động của việc tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản
1.3.1. Tác động đối với phía Nhật
Thứ nhất: Tác động tới tiêu ding trên thị trường Nhật: Giảm thiểu những mặt hàng thuỷ sản không đảm bảo chất lượng được nhập khẩu vào thị trường. Đồng thời có tác động lớn tới sức tiêu dùng và tâm lý tiêu dùng của người tiêu dùng Nhật Bản. Một khi công tác quản lý chất lượng được thực hiện nghiêm thì hiệu quả của nó tạo ra là rất rõ rệt. Người tiêu dùng sẽ yên tâm hơn việc họ được bảo đảm an toàn khi sử dụng những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu. Những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật không chỉ dùng để bán ngay ra thị trường mà một số còn được sử dụng để chế biến tạo ra các sản phẩm, thực phẩm liên quan.
Thứ hai: Tác động tới hoạt động của các doanh nghiệp thuỷ sản của Nhật: Việc thực hiện siết chặt quản lý chất lượng cũng tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp thuỷ sản trong nước. Một phần họ có đủ điều kiện trong việc nâng cao cạnh tranh trên thị trường, một phần họ cũng bị ảnh hưởng từ việc nhập khẩu nguồn nhiên liệu từ nước ngoài vào. Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ tôm khá lớn, tôm được coi là một mặt hàng sử dụng chủ yếu để chế biến các sản phẩm mà người tiêu dùng Nhật rất thích. Một khi Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát, quản lý chất lượng với mặt hàng này, thì lượng tôm nhập khẩu sẽ giảm rõ rệt.
1.3.2. Tác động tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Với việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản được nhập khẩu từ Việt Nam đã ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp và toàn ngành thuỷ sản nói chung. Nhật Bản trong những năm trước vẫn là một trong hai thị trường có sức tiêu thụ thuỷ sản Việt Nam xuất sang lớn nhất. Đây được coi là một thị trường truyền thống đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Hàng năm sản lượng thuỷ sản tiêu thụ tại Nhật, đem lại nguồn doanh thu hơn 1 tỷ đô cho phía Việt Nam. Các mặt hàng chủ yếu mà các doanh nghiệp Việt Nam xuất sang là mực, tôm sú, tôm đông lạnh chiên sẵn, một số mặt hàng cá. Từ cuối năm 2006 khi mà phía Nhật áp dụng chính sách siết chặt quản lý chất lượng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, thì sản lượng các mặt hàng thuỷ sản này đã giảm rõ rệt, điều đó cũng ảnh hưởng tới giá trị sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp đang làm ăn trên thị trường này. Ví dụ: Công ty xuất khẩu thuỷ sản Thaimex là một doanh nghiệp có giá trị thuỷ sản hàng năm sang Nhật lớn thứ 3 trong nước, trư
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top